Phúc Tâm Đường

https://phuctamduong.com


MỎ QUẠ

.

.

MỎ QUẠ Tên khoa học: MACLURA COCHINCHINENSIS (Lour.) Corner Họ: MORACEAE Tên khác: hoàng lồ, cây bớm, sọng vàng, gai mang, nam phịt (Tày), gai vàng lồ. Theo Danh mục thuốc thiết yếu thuốc đông y và thuốc từ dược liệu lần VI thuộc nhóm VII - Thanh nhiệt giải độc.

MÔ TẢ: Cây bụi, có cành vươn dài. Vỏ thân màu xám có chấm trắng. Thân và cành có nhiều gai cong xuống. Lá mọc so le, mặt trên xanh bóng. Cụm hoa hình cầu mọc ở kẽ lá, màu vàng nhạt. Quả kép. Toàn cây có nhựa mủ trắng.
MÙA HOA QUẢ: Hoa: Tháng 4 - 5; Quả: Tháng 6- 10.
PHÂN BỔ: Cây mọc hoang ở đồi núi, ven đường...khắp các tỉnh
BỘ PHẬN DÙNG: Rễ và lá. Thu hái quanh năm. Lá dùng tươi. Rễ phơi hoặc sấy khô.
THÀNH PHẦN HÓA HỌC: Rễ và lá chứa flavonoid.
CÔNG DỤNG: Lá tươi rửa sạch bỏ cọng giã nhỏ hoặc nấu cao đắp chữa các vết thương phần mềm. Nếu vết thương xuyên thủng, đắp hai bên, băng lại. Ngày làm một lần. Rễ chữa thấp khớp, phù thũng, ứ huyết, bế kinh, bị đánh tổn thương: ngày 10- 30g sắc uống.


 
 TÀI LIỆU THÂM KHẢO THÊM:
 

Cây mỏ quạ còn có tên là hoàng lồ, vàng lồ, xuyên phá thạch. Tên khoa học Cudrania tricuspidata (Carr.) Bur., thuộc họ Dâu tằm.
Cây nhỏ, thân mềm yếu, nhiều cành, tạo thành bụi, có khi mọc thành cây nhỡ, chịu khô hạn rất khỏe, có nhựa mủ trắng, rễ hình trụ có nhiều nhánh, mọc ngang, rất dài, nếu gặp đá có thể xuyên qua được. Thân và cành có rất nhiều gai, gai già hơi cong xuống trông như mỏ con quạ. Lá mọc cách, hình trứng thuôn, hai đầu nhọn, mặt lá nhẵn, bóng, mép nguyên, nhấm có vị tê tê ở lưỡi. Cụm hoa hình cầu, đường kính 7-10 mm, màu vàng nhạt, mọc thành đôi hay đơn độc ở kẽ lá. Hoa đơn tính, đực cái khác gốc. Mùa hoa tại Hà Nội là tháng 4.
Cây mỏ quạ mọc hoang và được trồng làm hàng rào ở những đồi hoang hay đất vườn. Thường dùng lá tươi, rễ. Lá mỏ quạ tươi đã được dùng chữa vết thương phần mềm theo kinh nghiệm của cụ lang Long (Hải Dương) như sau: Chủ yếu dùng lá mỏ quạ tươi, rồi tùy theo vết thương, thêm một hai vị khác. Lá mỏ quạ tươi lấy về rửa sạch, bỏ cọng, giã nhỏ đắp vào vết thương. Nếu vết thương xuyên thủng thì phải đắp cả hai bên, băng lại. Mỗi ngày rửa và thay băng một lần. Thuốc rửa vết thương là lá trầu không nấu với nước (40 g lá trầu, 2 lít nước, nấu sôi để nguội, thêm vào đó 8 g phèn phi, hòa tan, lọc và dùng rửa vết thương). Sau 3-5 ngày đã đỡ, khi đó hai ngày mới cần rửa và thay băng một lần.
Trường hợp vết thương tiến triển tốt nhưng lâu đầy thịt thì thay thuốc sau: Lá mỏ quạ tươi và lá thòng bong hai vị bằng nhau, giã lẫn cả hai thứ đắp lên vết thương, mỗi ngày rửa và thay băng một lần. 3-4 ngày sau lại thay thuốc sau: lá mỏ quạ tươi, lá thòng bong, lá hàn the ba thứ bằng nhau, cứ 3 ngày mới thay băng một lần để vết thương chóng lên da non.
Sau 2-3 lần thay băng bằng 3 vị trên thì rắc lên vết thương thuốc bột chế bằng phấn cây cau (sao khô) 20 g, phấn cây chè (sao khô) 16 g, ô long vĩ (bồ hóng) 8 g, phèn phi 4 g. Các vị tán mịn, trộn đều rắc lên vết thương rồi để yên cho vết thương đóng vảy và róc thì thôi.
Rễ được dùng trong nhân dân ta và Trung Quốc (Quảng Tây) làm thuốc khứ phong, hoạt huyết phá ứ, chữa ứ tích lâu năm, bị đả thương, phụ nữ kinh bế. Ngày dùng 10-30 g rễ dưới dạng thuốc sắc. Theo kinh nghiệm nhân dân, phụ nữ có thai không dùng được.
   GS Đỗ Tất Lợi, Sức Khỏe & Đời Sống

Nguồn tin: www.vienduoclieu.org.vn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây