34 công thức huyệt thường dùng: Hợp cốc, Phục lưu
- Thứ tư - 27/11/2013 18:33
- In ra
- Đóng cửa sổ này
NHÓM THỨ 3
Nói tóm lại, 2 huyệt này có khả năng làm sơ thông lại có thể làm dừng lại đối với mồ hôi ta gọi đây là phép “dị bệnh đông trị”.
f) Phụ lục: những người thầy châm cứu đều biết rằng đối với việc dùng châm cứu để trị mồ hôi là đã được người xưa nói rất nhiều. Tuy nhiên, trong khi dùng 2 huyệt Phục lưu và Hợp cốc trong việc vừa làm ngưng vừa làm chảy mồ hôi ít được giải thích cặn kẽ. Do đó, qua thực tiễn lâm sàng, tôi đã suy nghĩ rất nhiều, nay xin trình bày như dưới đây:
Hạn là chất “dịch” của Tâm, trong lúc đó Thận chủ về ngũ dịch, đó là cái lý thông thương ai cũng biết. Một vấn đề được đặt ra: tại sao Phục lưu thuộc Thận kinh, Hợp cốc thuộc Đại trường kinh, cả 2 lại có thể làm ngưng mồ hôi lại có thể làm chảy mồ hôi?
Nói 1 cách tổng quát thì:
i) Phát hạn (làm cho ra mồ hôi): châm tả Phục lưu và châm bổ Hợp cốc.
Khi châm bổ Hợp cốc vừa có thể điều hoà bên trong lại vừa có thể khai mở được bên ngoài. Bên trong nó làm khai thông kinh khí của Dương minh, Phế khí được tiêu giáng, Tam tiêu được thông sướng, tân dịch vận hành, như vậy là Vị khí được hoà, bên trong sẽ được an và tà khí bị đuổi đi... Đối với bên ngoài, huyệt Hợp cốc thiên về Dương, mà khí Dương thì nhẹ, trong, đi lên và đi ra ngoài, nó sẽ làm tán được tà khí đang làm uất ở phần vệ. Trong khi Dương khí ra ngoài, nó sẽ áp bức tà khí ra ngoài như vậy là tà chinh tranh nhau làm cho mồ hôi phải thoát ra, vì thế xem việc châm Hợp cốc ở đây đóng vai trò “quân”.
Khi châm tả Phục lưu là nhằm “tả” cho Hợp cốc, nó sẽ làm sơ thông và điều hoà huyền phủ (lổ mồ hôi), tăng thêm sức mạnh bên trong, ngoài ra nó còn làm công việc “tư” cho Âm của Thận, làm sung cho cái “nguồn” của mồ hôi, phù chính khí, đuổi tà khí. Như vậy là Phục lưu đóng vai trò “thần”,: “quân” và thần hợp sức nhau làm sao tà khí chống lại nổi? Làm sao mồ hôi không ra? Khi mồ hôi ra, tức là tà khí bị đuổi, bệnh sẽ khỏi. Câu “dị bệnh đồng trị” chứng tỏ sự áo diện của phép châm cứu trị liệu, mong quý vị học giả để tâm nghiên cứu sâu hơn.
a) Phối huyệt: Hợp cốc, Phục lưu
b) Hiệu năng: điều hoà doanh vệ, ôn Dương cổ biểu
c) Chủ trị: tự hạn, đạo hạn (mồ hôi trộm), ra nhiều mồ hôi, bị vong Dương; Bụng bị trướng, thủy thũng, ruột sôi, thân thể nhiệt mà không mồ hôi, 6 mạch đều vi tế hoặc mạch phục khó ứng tới đầu ngón tay.
d) Phép châm và cứu: châm Hợp cốc làm ngưng mồ hôi, sâu 8 phân, châm tả, hoặc làm ra mồ hôi, sâu 5 phân, châm bổ, cứu 3 tráng. Châm Phục lưu làm ngưng mồ hôi sâu 3 phân, châm bổ, hoặc làm ra mồ hôi sâu 5 phân, châm tả.
e) Giải phương: Hợp cốc là huyệt Nguyên của kinh Thủ Dương minh, có thể thăng, có thể giáng, làm điều hoà Âm Dương. Phục lưu là huyệt Kinh của kinh Túc Thiếu âm, có thể làm sơ thông và điều hoà huyền phủ (lổ mồ hôi), tư Âm cho Thận và đuổi được Thấp tà. Hai huyệt này phối nhau sẽ làm cho doanh vệ được hoà làm dứt được tư hạn, làm cho Âm Dương điều hoà và dứt được đạo hạn. Nếu tà khí xâm nhập vào khí doanh vệ, đến nỗi là cho khí doanh vệ bị thực, tấu lý không khai để rồi uất bế phát nhiệt làm cho không ra được mồ hôi và đuổi được tà.b) Hiệu năng: điều hoà doanh vệ, ôn Dương cổ biểu
c) Chủ trị: tự hạn, đạo hạn (mồ hôi trộm), ra nhiều mồ hôi, bị vong Dương; Bụng bị trướng, thủy thũng, ruột sôi, thân thể nhiệt mà không mồ hôi, 6 mạch đều vi tế hoặc mạch phục khó ứng tới đầu ngón tay.
d) Phép châm và cứu: châm Hợp cốc làm ngưng mồ hôi, sâu 8 phân, châm tả, hoặc làm ra mồ hôi, sâu 5 phân, châm bổ, cứu 3 tráng. Châm Phục lưu làm ngưng mồ hôi sâu 3 phân, châm bổ, hoặc làm ra mồ hôi sâu 5 phân, châm tả.
Nói tóm lại, 2 huyệt này có khả năng làm sơ thông lại có thể làm dừng lại đối với mồ hôi ta gọi đây là phép “dị bệnh đông trị”.
f) Phụ lục: những người thầy châm cứu đều biết rằng đối với việc dùng châm cứu để trị mồ hôi là đã được người xưa nói rất nhiều. Tuy nhiên, trong khi dùng 2 huyệt Phục lưu và Hợp cốc trong việc vừa làm ngưng vừa làm chảy mồ hôi ít được giải thích cặn kẽ. Do đó, qua thực tiễn lâm sàng, tôi đã suy nghĩ rất nhiều, nay xin trình bày như dưới đây:
Hạn là chất “dịch” của Tâm, trong lúc đó Thận chủ về ngũ dịch, đó là cái lý thông thương ai cũng biết. Một vấn đề được đặt ra: tại sao Phục lưu thuộc Thận kinh, Hợp cốc thuộc Đại trường kinh, cả 2 lại có thể làm ngưng mồ hôi lại có thể làm chảy mồ hôi?
Nói 1 cách tổng quát thì:
- Tự hạn phần lớn là do Dương khí bị hư tổn, không giữ bên ngoài được vững chắc, doanh vệ bị mất đi sự điều hoà.
- Đạo hạn phần lớn do ở Âm hư nội nhiệt, mất đi khả năng liễm tàng mà ra.
- Hạn bị bế phần lớn do tà khí của Phong Hàn làm bế tắc, trở ngại các mao Thiếu mà ra. Chúng ta có thể cùng sử dụng 2 huyệt để vừa làm ngưng mồ hội, vừa làm chảy mồ hôi
i) Phát hạn (làm cho ra mồ hôi): châm tả Phục lưu và châm bổ Hợp cốc.
Khi châm bổ Hợp cốc vừa có thể điều hoà bên trong lại vừa có thể khai mở được bên ngoài. Bên trong nó làm khai thông kinh khí của Dương minh, Phế khí được tiêu giáng, Tam tiêu được thông sướng, tân dịch vận hành, như vậy là Vị khí được hoà, bên trong sẽ được an và tà khí bị đuổi đi... Đối với bên ngoài, huyệt Hợp cốc thiên về Dương, mà khí Dương thì nhẹ, trong, đi lên và đi ra ngoài, nó sẽ làm tán được tà khí đang làm uất ở phần vệ. Trong khi Dương khí ra ngoài, nó sẽ áp bức tà khí ra ngoài như vậy là tà chinh tranh nhau làm cho mồ hôi phải thoát ra, vì thế xem việc châm Hợp cốc ở đây đóng vai trò “quân”.
Khi châm tả Phục lưu là nhằm “tả” cho Hợp cốc, nó sẽ làm sơ thông và điều hoà huyền phủ (lổ mồ hôi), tăng thêm sức mạnh bên trong, ngoài ra nó còn làm công việc “tư” cho Âm của Thận, làm sung cho cái “nguồn” của mồ hôi, phù chính khí, đuổi tà khí. Như vậy là Phục lưu đóng vai trò “thần”,: “quân” và thần hợp sức nhau làm sao tà khí chống lại nổi? Làm sao mồ hôi không ra? Khi mồ hôi ra, tức là tà khí bị đuổi, bệnh sẽ khỏi. Câu “dị bệnh đồng trị” chứng tỏ sự áo diện của phép châm cứu trị liệu, mong quý vị học giả để tâm nghiên cứu sâu hơn.