Phúc Tâm Đường

https://phuctamduong.com


34 công thức huyệt thường dùng:Trung quản, Túc Tam lý

NHÓM THỨ 15
a) Phối huyệt: Trung quản, Túc Tam lý
b) Hiệu năng: làm táo được Thấp khí, kiện Tỳ, làm thăng Dương và “ích” Vị.
c) Chủ trị: trị chứng hư hàn trong Vị, ăn uống không xuống, vùng hoãn phúc bị trướng và thống bị tích tụ và đình đàm, đình thực, túc ẩm, bĩ khối, hoắc loạn…
d) Phép châm và cứu: châm Trung quản sâu 5 phân đến 1 thốn, cách 3 ngày tái châm, thông thường nên bình bổ bình tả. Châm Túc Tam lý sâu 5 phân đến 1 thốn, hư bổ thực tả, sau khi châm xong, nên cứu cả 2 từ 3 đến 5 tráng. Nếu bị ẩu thổ và phản Vị có thể tùy theo tình hình mà dùng phép tả.
e) Phép gia giảm: nếu vùng Thượng tiêu bị uất nhiệt, châm thêm Thông cốc (tả) sâu 5 phân. Nếu tạng khí bị hư, châm bổ thêm Chương môn sâu 3 phân. Trong Trường Vị bị tích trệ, châm tả Đại trường du, sâu 3 phân, châm Thiên xu cạn, cứu 5 tráng, châm Tiểu trường du sâu 3 phân, tả, hoặc châm Thượng liêm sâu 5 phân, tả. Nếu vùng Hạ nguyên bị hư hàn, châm bổ thêm Khí hải, sâu 3 phân, cùng cứu như Thiên xu 5 tráng. Nếu bị nhiệt hoắc loạn, châm Ủy trung, Xích trạch xuất độc huyết sau đó châm bổ thêm huyệt Trung quản.
f) Giải phương: huyệt Trung quản là hội huyệt của Nhâm mạch, với Túc Dương minh Vị kinh, Thủ Thái dương Tiểu Trường kinh, Thủ Thiếu dương Tam tiêu kinh, nó cũng là hội huyệt của lục phủ, là huyệt mộ của Vị. Vì thế chúng ta thủ huyệt Trung quản làm “Quân” để thống trị các bệnh thuộc lục phủ. Khi gặp chứng hư, nên dùng phép bổ, đó là làm cho tráng được trung khí. Khi châm tả huyệt Trung quản là nhằm làm sơ thông trệ khí, khi mà Vị khí giáng Tỳ khí thăng, khí tân dịch sẽ dâng tràn lên trên, các chứng ẩu thổ… sẽ tự trừ.
Thủ huyệt Túc Tam lý đóng vai “thần và tá” chỉ vì nó có khả năng làm “thăng” Dương khí, làm “ích” Vị khí, nó sẽ trợ cho Trung quản trong việc làm an Vị khí, “ích” Tỳ khí. Châm tả Túc Tam lý sẽ làm giáng trọc khí, dẫn đạo trệ khí, nó sẽ “tá” cho Trung quản để làm “lợi” cho sự vận hành. Hai huyệt hợp lại thành nhiệm vụ của “quân thần”, trong lâm sàng, chúng có những công dụng xác thực.
Thủ huyệt Ủy trung, Xích trách xuất huyết là nhằm làm trừ khử được tà khí ô uế của thử khí, trừ được chứng hoắc loạn. Khi châm bổ Khí hải, Thiên xu là để làm ấm vùng hạ nguyên, bổ Thận, kiện Tỳ. Châm tả Thông cốc là làm cường Tỳ kiện Vị, bởi vì huyệt này là huyệt giao hội của kinh Túc thiếu âm Thận và Xung mạch… Nếu châm tả có thể làm tiêu trướng, chỉ thống, định được ẩu thổ, trợ cho Trung quản, làm lợi được sự vận hành. Khi bổ Chương môn sẽ làm tán được hàn khí của ngũ tạng, vì nó là nơi hội của ngũ tạng. Châm tả Đại và Tiểu trường du là để làm sơ điều Đại Tiểu trường, thông khí, hoá trệ.
g) Ghi chú: châm Ủy trung và Xích trạch để trị chứng nhiệt hoắc loạn quả thực có những kết quả rất cao. Đây là kinh nghiệm mà tôi đã được thầy tôi truyền lại. Trong 30 năm trời, tôi đã dùng nó để trị không biết bao nhiêu người khỏi bệnh. Nhất là huyệt Xích trạch, có những trường hợp và châm kim xuống xong đã làm cho chứng phiền Tâm dễ chịu ngay.

Nguồn tin: sưu tầm

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây