Phúc Tâm Đường

https://phuctamduong.com


ĐỊNH NINH TÔI HỌC MẠCH - Tứ thời mạch

Con người hấp thụ khí tiết ấy sinh sống, ảnh hưởng đến mạch khí 5 tạng. Mạch khí 5 tạng cũng mỗi mùa tuần tự đổi thay khác nhau cho hợp với khí trời đất mới khỏe mạnh (theo âm lịch).
.
TỨ THỜI MẠCH

     1. MẠCH THEO KHÍ TIẾT 4 MÙA
    Khí tiết trời đất lưu hành vận chuyển trong không gian, có thứ tự, có độ số âm dương tùy theo thời gian phân chia cho 4 mùa, mỗi mùa khác nhau.
     Con người hấp thụ khí tiết ấy sinh sống, ảnh hưởng đến mạch khí 5 tạng. Mạch khí 5 tạng cũng mỗi mùa tuần tự đổi thay khác nhau cho hợp với khí trời đất mới khỏe mạnh (theo âm lịch).
     Mỗi năm 12 tháng chia cho 4 mùa, mỗi mùa 3 tháng, mỗi tháng 30 ngày. Cộng 360 ngày.
     Để cho hợp với 5 tạng: Can Tâm Phế Thận Tỳ, và cũng thuộc với 5 hành: Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy, cổ nhân lại chia ra 5 mùa: Xuân Hạ Thu Đông và Tứ quý.

  Mùa Vào tháng Hành  Tạng
1 Xuân 1-2-3 Mộc Can
2 Hạ 4-5-6 Hỏa Tâm
3 Thu 7-8-9 Kim Phế
4 Đông 10-11-12 Thủy Thận
5 Tứ quý 13 ngày cuối mỗi mùa Thổ Tỳ

Nói rằng mùa Tứ quý thuộc 4 tháng (3, 6, 9, 12) cuối của 4 mùa là nói tổng quát cho dễ hiểu. Nếu như vậy trong một năm chia ra mùa Tứ quý 120 ngày, còn 4 mùa kia mỗi mùa có 60 ngày sao?
Thực ra mùa Tứ quý tính vào 18 ngày cuối mỗi mùa, 4 mùa tổng cộng 72 ngày (18 x 4 = 72)
Bốn mùa kia, mỗi mùa 3 tháng (90 ngày) mỗi mùa cắt ra 18 ngày cho mùa tứ quý. Mỗi mùa còn 72 ngày ( 90 – 18 = 72)
     Như vậy trong một năm 360 ngày chia cho 5 mùa, mỗi mùa 72 ngày, tương ứng với 5 tạng là quân bình.
Tạng Tỳ nhận lãnh tinh hoa chất ăn uống đem đi nuôi 4 tạng kia (tạng Tỳ thuộc Thổ) Tỳ thổ không đứng riêng một mùa nào, như Can mùa Xuân, Tâm mùa Hạ, Phế mùa Thu, Thận mùa Đông mà lại đứng nhờ vào 18 ngày, tháng cuối mùa của 4 quý là ý nghĩa: “Thổ vượng Tứ quý”: “ Hành Thổ vượng ở 4 tháng quý”.
Hành thổ còn tính vào tháng Trưởng Hạ.
Tháng Trưởng Hạ tính vào khoảng giữa năm “6 tháng đầu năm tiếp sang 6 tháng cuối năm” (bán thiên dĩ thượng, bán niên dĩ hạ). Lúc ấy là lúc hè thu giáp nhau, tức 15 ngày cuối tháng 6 nối liền với 15 ngày đầu tháng 7 là tháng Trưởng Hạ thuộc hành Thổ.
Người ta xem mạch Tỳ thổ tính vào tháng Tứ quý hay tính vào tháng Trưởng Hạ, đó là tùy ngộ.

     II. TÍNH CHẤT KHÍ TIẾT LƯU HÀNH HOẠT ĐỘNG CỦA 5 MÙA - MẠCH TƯỢNG 5 MÙA.
  1. Mùa Xuân lớn lên (Xuân sinh) như cây khi mới mọc mầm lên, thân cây mềm mại non nớt.
  2. Mùa Hạ lớn lên (Hạ trưởng) như cây lớn lên, cành lá xanh, bông trái tốt.
  3. Mùa Thu thâu gọn lại (Thu thâu) như cây thâu gọn tinh nhựa vào trái.
  4. Mùa Đông cất giữ (Đông tàng) như cây khi kết trái, cất giữ màu nhựa để sang Xuân lại nảy nở.
  5. Mùa Tứ quý hòa hoãn (Tứ quý hoãn) cuối mùa nọ sang đầu mùa kia phải bình hòa khoan hoãn để hóa sinh chuyển tiếp.
     Ta nhìn lên thấy rõ khí tiết lưu hành của 5 mùa (Xuân sinh, hạ trưởng, thu phân, đồng tàng và tứ quý hoãn) trong hàng năm rất có thứ tự mà bình hòa. Mạch khí nhân loại cũng thuận theo khí tiết thứ tự ấy mới khỏe mạnh.
     Mạch khí 5 tạng cũng theo tính chất khí tiết đổi thay biểu lộ ra hình tượng.

     1. Xuân Huyền: Mùa Xuân mạch Huyền ứng vào tạng Can (Can thuộc mộc). Nghĩa là mùa Xuân xem mạch Can, vừa mới xem cong cong cưng cứng như dây đờn, nhưng rồi mềm mại như thân cây khi mới lên mầm. Đúng với ý nghĩa Xuân sinh.

     2. Hạ Hồng: Mùa hạ mạch Hồng ứng vào tạng Tâm (Tâm thuộc hỏa) (nói Hạ hồng hay hạ câu cùng một nghĩa). Nghĩa là mùa Hạ xem mạch Tâm thấy bốc lên rừng rực như đám lửa bốc cháy hay như lúc nước lớn sóng cuộn. Trong lúc lửa bốc sóng cuộn nó có hình cong cong như móc câu, chứ không phải nó cứng như móc câu bằng sắt. Đúng với ý nghĩa Hạ Trưởng.

     3. Thu Mao: Mùa thu mạch Mao ứng với tạng Phế (Phế thuộc kim). Nghĩa là mùa thu xem mạch Phế tựa như kim khí khi chìm xuống chắc rắn ở trong, chỉ còn hình bóng nhẹ nhàng trôi nổi như cánh lông bay lơ lửng ở ngoài. Đúng với nghĩa Thu Thâu.

     4. Đông Thạch: Mùa đông mạch Thạch ứng với tạng Thận (Thận thuộc thủy) nghĩa là mùa đông xem mạch Thận tinh khí trầm nặng cất giữ ở trong tựa như đá nặng chìm xuống dưới. Đúng với ý nghĩa Đông Tàng.

     5.Tứ quý Hoãn: Mùa Tứ quý mạch Hoãn ứng với tạng Tỳ (Tỳ thuộc thổ). Nghĩa là mùa tứ quý xem mạch Tỳ khoan hòa bình thản du dương không cấp táo. Đúng với ý nghĩa Tứ quý Hoãn hay Trưởng Hạ Hoãn.

Như vậy xem riêng từng bộ:
Xuân mạch, Can huyền
Hạ mạch, Tâm hồng
Thu mạch, Phế mao
Đông mạch, Thận thạch
Tứ quý mạch, Tỳ hoãn.
Đó là đúng mạch bản tạng của mỗi tạng. Nhưng nếu xem chung cả 6 bộ mạch:
Mùa xuân chẳng chỉ một Can huyền mà cả 6 bộ đều hơi huyền.
Mùa hạ chẳng chỉ một Tâm hồng mà cả 6 bộ đều hơi hồng.
Mùa thu chẳng chỉ một Phế mao mà cả 6 bộ đều hơi mao.
Mùa đông chẳng chỉ một Thận thạch mà cả 6 bộ đều hơi thạch.
Mùa Tứ quý chẳng chỉ một Tỳ hoãn mà cả 6 bộ đều hơi hoãn.
Đó là mạch toàn bộ đúng mùa, mới là mạch khí ấy vô bệnh.

     III. NGŨ THỜI VỊ KHÍ VI CHI BẢN
 (Mạch của 5 mùa phái có Vị khí làm căn bản).


Mùa xuân mạch Can huyền, Hạ mạch Tâm hồng, Thu mạch Phế mao, Đông mạch Thận thạch và Tứ quý mạch hoãn thật là đúng mạch, đúng tạng, đúng mùa.
Nhưng nếu mạch 5 tạng trong 5 mùa chỉ thấy rặt những Huyền, Hồng, Mao, Thạch và Hoãn mà không có pha lẫn với mạch khác thì lại là không có Vị khí.
Hẳn là nó phải pha lộn mạch khác mới là mạch có Vị khí, mới là tốt vậy.
Xét ra mạch 5 mùa này chỉ để xem cho những bệnh trầm trọng thâm căn chứ không thông dụng thường xuyên khi chẩn trị, nhưng cần phải biết cho rộng.
 
 

Tác giả bài viết: Lê Đức Thiếp

Nguồn tin: Định Ninh Tôi Học Mạch, Hội & CLB YDDT Sở Y tế Tp HCM

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây