Phần cuối
- Thứ tư - 19/02/2014 22:19
- In ra
- Đóng cửa sổ này
.
Lời Cuối
Triết học tôn giáo phương Đông quan tâm đến những nhận thức đạo học vượt thời gian, chúng nằm ngoài suy luận và không thể diễn đạt tới nơi bằng chữ nghĩa. Mối liên hệ của những nhận thức này với vật lý hiện đại chỉ là một trong nhiều khía cạnh và, cũng như cái khác, không thể trình bày tới cùng, mà phải chứng nghiệm bằng con đường trực giác. Thế nhưng, điều mà tôi muốn đạt tới, trong chừng mực nhất định, không phải là một sự trình bày cứng nhắc, mà tạo cho độc giả cơ hội tự nếm trải một kinh nghiệm, đối với tôi nó đã thành suối nguồn của niềm vui và cảm khái liên tục; đó là những lý thuyết và mô hình chính yếu của vật lý hiện đại dẫn tới một thế giới quan, chúng tương thích từ trong bản chất và hòa hợp toàn hảo với quan điểm của đạo học phương Đông.
Ai đã thực chứng mối hòa hợp này, thì sự quan trọng của tính song hành nổi bật giữa thế giới quan của nhà vật lý và nhà đạo học, đối với người đó không còn đáng nghi ngờ gì. Thế thì câu hỏi thú vị cho bây giờ không phải là liệu chúng song hành hay không, mà tại sao, và hơn nữa, chúng gợi cho ta điều gì.
Nhằm hiểu ngộ cái bí ẩn của đời sống, mọi người có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong những cách đó, có cách thế của khoa học và đạo học, nhưng còn nhiều cách khác nữa; cách của nhà thơ, của trẻ con, của chú hề, của nhà phù thủy… nếu ta muốn kể thêm vài cách. Những cách này dẫn đến những mô tả khác nhau về thế giới, với ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ, chúng nhấn mạnh đến nhiều khía cạnh khác nhau. Tất cả đều có giá trị và hữu ích trong phạm vi mà chúng xuất hiện. Tuy nhiên, tất cả những cách đó, chỉ là sự mô tả hay biểu tượng của thực tại và vì thế có giới hạn. Không cách nào có thể cho một hình ảnh toàn triệt về thế giới.
Quan điểm về thế giới cơ học của vật lý cổ điển là hữu ích cho sự mô tả các loại hiện tượng vật lý mà chúng ta gặp trong đời sống hàng ngày, và vì thế mà phù hợp để giải quyết những vấn đề của môi trường sống hàng ngày. Nó cũng chứng minh sự thành công xuất sắc, với tính cách là cơ sở của kỹ thuật. Tuy thế nó không phù hợp khi mô tả các hiện tượng vật lý trong lĩnh vực vi mô. Ngược lại với quan điểm cơ giới về thế giới là cái nhìn của nhà đạo học, đó là cái nhìn hữu cơ, vì nó nhìn mọi hiện tượng trong vũ trụ là những thành phần tổng hòa của một cái toàn thể hòa hợp không thể chia cắt. Thế giới quan này xuất phát trong truyền thống đạo học, từ những dạng thiên định của ý thức. Khi mô tả thế giới, nhà đạo học dùng những khái niệm xuất phát từ những thực chứng phi thường đó và, nói chung là không phù hợp cho một sự mô tả khoa học về hiện tượng vĩ mô. Thế giới quan sinh cơ cũng không thuận lợi để chế tạo máy móc, cũng chẳng giải quyết được những vấn đề kỹ thuật của một thế giới nhân mãn.
Trong đời sống hàng ngày, cả hai cách nhìn cơ học và hữu cơ của vũ trụ đều có giá trị và đều hữu ích; một cái thì cho khoa học và kỹ thuật, cái kia thì cho sự thăng bằng và thỏa ứng đời sống tinh thần. Thế nhưng, bên kia môi trường hàng ngày của chúng ta, quan niệm cơ học mất giá trị và cần được thay thế bởi quan điểm hữu cơ, mà chúng rất giống với quan điểm sử dụng bởi nhà đạo học. Đây chính là kinh nghiệm cốt tủy của vật lý hiện đại, nó là đề tài của những thảo luận này của chúng ta. Vật lý của thế kỷ 20 đã chỉ ra rằng, phương thức của thế giới quan hữu cơ, mặc dù nó có giá trị đối với khoa học và kỹ thuật ở mức độ con người, đã trở nên hết sức hữu ích trong phạm vi nguyên tử và hạ nguyên tử. Quan điểm hữu cơ vì thế có lẽ là cơ bản hơn cái nhìn cơ học. Vật lý cổ điển, vốn đặt trên tính cơ giới, có thể suy luận từ thuyết lượng tử mà ra, thuyết lượng tử bao trùm thuyết cổ điển, nhưng không ngược lại. Điều này cho ta câu trả lời đầu tiên, tại sao có thể tin được thế giới quan của vật lý hiện đại và của đạo học phương Đông tương đồng với nhau. Cả hai xuất phát từ chỗ khi tìm hiểu tự tính cốt tủy của sự vật – khi đi vào lĩnh vực sâu xa của vật chất trong vật lý; khi đi vào lĩnh vực sâu xa của ý thức trong đạo học – thì ta khám phá một thực tại nằm sau bộ mặt cơ giới nông cạn của đời sống hàng ngày.
Sự tương đồng giữa cái nhìn của nhà vật lý và đạo học trở nên dễ hiểu hơn khi ta nhớ lại những tương đồng khác đã có, mặc dù hai bên có hai cách khác nhau để tiếp cận thực tại. Trước hết, phương pháp của cả hai đều là thực nghiệm. Nhà vật lý suy luận ra nhận thức của họ thông qua thí nghiệm; nhà đạo học suy ra nhận thức của họ từ chứng thực thiền quán. Cả hai đều là sự quan sát, và trong cả hai bên, quan sát được xem là nguồn suối duy nhất của nhận thức. Tất nhiên là đối tượng quan sát rất khác nhau cho hai trường hợp. Nhà đạo học nhìn về phía trong và khám phá ra ý thức của mình trong nhiều tầng mức khác nhau, kể cả tầng mức thấy thân thể chính là hiện thân của tâm thức. Thực chứng về thân người này, thực ra là được coi trọng trong nhiều truyền thống phương Đông và thường được xem là chìa khóa mở cánh cửa chứng nghiệm huyền bí về thế giới. Khi chúng ta mạnh khỏe, ta không thấy có phần thân thể nào tách rời thân ta mà ý thức chúng là một cái toàn thể và ý thức này sinh ra một cảm giác dễ chịu và an lạc. Tương tự thế, nhà đạo học ý thức về một cái toàn thể của toàn bộ vũ trụ, nó được chứng thực như thân thể được mở rộng. Sau đây là những dòng của Lama Govinda:
Đối với người giác ngộ… ý thức của họ bao trùm vũ trụ, vũ trụ trở thành “thân” của người đó, còn ứng thân (Thân) của người đó thành một biểu hiện của tâm thức vũ trụ, quán sát nội tại ( Ý) của người đó trở thành thực tại cao tột và ngôn ngữ (Khẩu) của người đó trở thành sự thực vĩnh hằng và có sức mạnh thần diệu.
Ngược với đạo học, nhà vật lý bắt đầu tìm tòi về tự tính sự vật bằng cách nghiên cứu thế giới vật chất. Xuyên suốt vào các tầng sâu kín của sự vật, anh ta đã ý thức tính nhất thể cốt tủy của sự vật và biến cố. Hơn thế nữa, anh ta đã biết rằng chính bản thân và ý thức của mình cũng là phần bất khả phân của cái toàn thể đó. Thế nên nhà đạo học và nhà vật lý đã tới một kết luận chung; người thì bắt đầu bằng nội tâm, kẻ bắt đầu từ ngoại giới. Sự hòa điệu giữa những cái nhìn của họ xác định minh triết cổ xưa của Ấn Độ rằng Brahman, thực tại ngoại giới cuối cùng, là đồng thể với Atman, thực tại nội tâm.
Một sự tương đồng nữa giữa phương pháp của nhà vật lý và nhà đạo học là những quan sát của họ nằm trong những lĩnh vực mà giác quan bình thường không với tới được. Trong vật lý hiện đại, đó là lĩnh vực của nguyên tử và hạ nguyên tử; trong đạo học, đó là tình trạng phi thường của ý thức; trong đó thế giới giác quan được chuyển hóa. Nhà đạo học hay nói về những thực chứng ở một mức độ cao, nơi đó ấn tượng của các trung tâm ý thức khác nhau hòa hợp vào một cái chung. Một tình trạng tương tự cũng có trong vật lý hiện đại, nơi mà không gian – thời gian bốn chiều được sử dụng, nhờ đó mà thống nhất được các khái niệm và quan sát thuộc những chủng loại khác nhau của một thế giới ba chiều thông thường. Trong cả hai trường hợp, những kinh nghiệm nhiều chiều đã chuyển hóa thế giới cảm quan và vì thế mà hầu như không diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được.
Ta thấy rằng phương pháp của nhà vật lý hiện đại và của nhà đạo học phương Đông, mới đầu thì thấy hoàn toàn không liên quan gì đến nhau, nhưng thực tế lại rất trùng hợp.
Bởi vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng có những tương đồng to lớn trong mọi mô tả thế giới. Một khi những tương đồng đó giữa khoa học phương Tây và đạo học phương Đông đã được thừa nhận, một loạt câu hỏi sẽ được đặt ra về hệ quả của chúng. Phải chăng khoa học hiện đại, với tất cả những máy móc tinh xảo của nó, chỉ đang phát hiện lại những minh triết cổ xưa, đã được các thánh nhân phương Đông biết đến từ cả ngàn năm trước? Vì thế mà phải chăng nhà vật lý hãy từ bỏ phương pháp khoa học và bắt đầu thiền định? Hay là có một sự ảnh hưởng qua lại giữa khoa học và đạo học, thậm chí một sự tổng hợp?
Tôi nghĩ rằng phải trả lời những câu hỏi đó bằng cách nói “không”. Tôi thấy khoa học và đạo học là hai biểu hiện bổ túc lẫn nhau của tư duy con người, của khả năng suy luận và khả năng trực giác. Nhà vật lý hiện đại chứng nghiệm thế giới thông qua sự chuyên môn tột cùng của tư duy trừu tượng; nhà đạo học thông qua sự chuyên môn tột cùng của trực giác. Hai cách tiếp cận này hoàn toàn khác nhau và chứa đựng nhiều hơn hẳn một cái nhìn về thế giới vật lý thuần túy. Thế nhưng, chúng bổ túc lẫn nhau, như chúng ta thường nói trong vật lý. Không cái nào chứa đựng cái kia, cũng không cái nào suy ra được cái kia, nhưng cả hai chúng đều cần thiết, chúng bổ túc lẫn nhau để có thể hiểu thế giới một cách hoàn toàn. Hãy nhắc lại một tục ngữ Trung Quốc, nhà đạo học biết gốc rễ của Đạo nhưng không biết cành ngọn; nhà khoa học hiểu cành ngọn nhưng không biết gốc rễ. Khoa học không cần biết tới đạo học, đạo học không cần biết tới khoa học, nhưng con người cần cả hai. Những kinh nghiệm đạo học là cần thiết để hiểu tự tính sâu kín của mọi vật và khoa học cần cho đời sống hiện đại. Vì thế điều ta cần, không phải là một sự tổng hợp mà là một sự tương tác động giữa trực giác đạo học và phân tích khoa học.
Đến nay, điều này vẫn chưa thực hiện được trong xã hội chúng ta. Hiện nay thái độ của ta là quá dương – nói theo cách nói Trung Quốc – quá nặng suy luận, quá nam tính và hiếu thắng. Bản thân các nhà khoa học là những thí dụ tiêu biểu. Mặc dù các lý thuyết của họ đang dẫn đến thế giới quan tương tự như của đạo học, điều nổi bật là, thực tế này không ảnh hưởng bao nhiêu lên thái độ sống của phần lớn nhà khoa học. Trong đạo học, nhận thức không tách rời một lối sống nhất định, đó là sự biểu hiện sống động của nhận thức. Đạt tới những tri thức huyền bí có nghĩa là phải qua một sự chuyển hóa. Còn nhận thức khoa học, mặt khác, thường vẫn giữ tính chất trừu tượng và lý thuyết. Thế nên phần lớn các nhà khoa học ngày nay xem ra không hiểu ngộ được những gì do lý thuyết của chính họ đem lại về triết học, văn hóa và tâm linh. Nhiều người trong họ vẫn tiếp tục ủng hộ một xã hội xây dựng trên một thế giới quan cơ học, phiến diện, mà không thấy rằng khoa học đã bỏ qua cái nhìn đó, hướng về một cái nhất thể của vũ trụ, nó không những chỉ bao hàm đời sống chung quanh ta mà còn những con người khác nữa. Tôi nghĩ rằng thế giới quan của vật lý hiện đại là không tương thích với xã hội hiện nay của chúng ta, xã hội đó không phản ánh gì mối tương quan hòa hợp mà ta quan sát được trong thiên nhiên. Nhằm đạt được một tình trạng thăng bằng động như thế, ta cần một cấu trúc xã hội và kinh tế hoàn toàn khác: một cuộc cách mạng văn hóa trong cảm quan đích thực về thế giới. Cuối cùng, toàn bộ nền văn minh của chúng ta có sống được hay không, có lẽ phụ thuộc vào điều là liệu chúng ta có đủ khả năng tiếp nhận thái độ âm của đạo học phương Đông; để chứng thực tính toàn thể của thiên nhiên va cách sống trong đó một cách hòa hợp.
Điểm Lại Nền Vật Lý Mới
Kể từ bản in lần đầu của Đạo của vật lý, có nhiều tiến bộ đáng kể trong các lĩnh vực của vật lý hạ nguyên tử xảy ra. Khi tôi viết những dòng cho lời nói đầu của bản in mới này thì những phát triển mới không có điểm nào bác bỏ những tương đồng với tư tưởng phương Đông, mà ngược lại, chỉ tăng cường thêm. Trong lời cuối này, tôi mong được thảo luận thêm về kết quả của những nghiên cứu mới mẻ trong vật lý nguyên tử và hạ nguyên tử cho đến mùa hè năm 1982.
Một trong những tương đồng mạnh nhất với đạo học phương Đông là sự thừa nhận rằng những đơn vị cấu thành vật chất và hiện tượng cơ bản do chúng sinh ra, tất cả đều tác động qua lại với nhau; rằng chúng không thể được hiểu như những đơn vị độc lập mà là phần không tách rời được của một cái toàn thể. Khái niệm của tương tác lượng tử mà tôi đã trình bày chi tiết trong chương 10 được Bohr và Heisenberg nhấn mạnh suốt trong lịch sử của thuyết lượng tử. Thế nhưng, nó vừa thêm được sự quan tâm mới mẻ trong hai thập niên vừa qua, khi nhà vật lý tiến đến chỗ thấy rằng vũ trụ quả thật được liên hệ lẫn nhau trong những cách tinh tế hơn người ta nghĩ nhiều. Phương thức mới của mối liên hệ lẫn nhau vừa được xác định không những đã tăng cường thêm cho sự song hành giữa cách nhìn vật lý và đạo học, nó còn sinh ra những khả năng hết sức lý thú để kết nối vật lý hạ nguyên tử với tâm lý học của Jung và, có thể thậm chí với siêu tâm lý học; và nó cho thêm ánh sáng mới về vai trò cơ bản của tính chất xác suất trong vật lý lượng tử.
Trong vật lý cổ điển, tính xác suất chỉ được dùng khi các chi tiết tham dự vào một biến cố không rõ ràng. Thí dụ khi ta đổ hạt súc sắc, trên nguyên tắc ta có thể tiên đoán mặt nào sẽ ra nếu ta biết hết tất cả lý tính và hóa tính đó: thành phần cấu tạo của hạt, bề mặt mà hạt rơi xuống, v.v… những chi tiết này được gọi là biến số tại chỗ hay biến số địa phương vì chúng nằm trong lòng vật thể đó. Trong vật lý hạ nguyên tử, biến số địa phương của những mối liên hệ giữa các biến cố nằm trong không gian là những tín hiệu – những tín hiệu đó là hạt hay nhóm các hạt – chúng tuân thủ định luật thông thường trong không gian.Thí dụ không có tín hiệu nào có thể đi nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Nhưng trong thời gian qua, ngoài những mối liên hệ địa phương này, người ta phát hiện ra những mối liên hệ khác, liên hệ liên thông, đó là những liên hệ xảy ra tức thời, hiện nay không thể tiên đoán trước bằng phép toán học chính xác.
Những biến cố liên thông này được nhiều nhà vật lý xem là rất cốt tủy trong vật lý lượng tử. Trong thuyết lượng tử, các biến cố riêng lẻ luôn luôn không có một nguyên nhân rõ ràng.Thí dụ khi một electron nhảy từ một quĩ đạo này qua một quĩ đạo khác hay sự tự hủy của một hạt hạ nguyên tử, chúng có thể xảy ra thình lình, không cần có một biến cố tạo ra nó. Không bao giờ chúng ta có thể tiên đoán một hiện tượng như thế sẽ xảy ra vào lúc nào và xảy ra như thế nào; chúng ta chỉ nói trước về xác suất của chúng. Điều đó không có nghĩa là các hiện tượng nguyên tử xảy ra hoàn toàn tùy tiện; mà chỉ nói lên rằng chúng không bị những tác nhân địa phương tác kích. Hoạt động của mỗi hạt được xác định bởi các biến số liên thông và vì chúng ta không biết rõ các mối liên hệ này nên đành phải thay thế nội dung cổ điển chật hẹp của nhân – quả bằng khái niệm rộng hơn của tính nhân quả thống kê. Các định luật của vật lý nguyên tử là định luật thống kê, theo đó mà xác suất của hiện tượng nguyên tử được xác định bởi tính động của toàn hệ thống.Trong vật lý cổ điển, tính chất và hoạt động của cái riêng lẻ quyết định tính chất và hoạt động của cái toàn thể, tình hình đó là ngược lại trong vật lý lượng tử: chính cái toàn thể xác định hoạt động của cái riêng lẻ.
Vì thế, tính xác suất được sử dụng cho cả vật lý cổ điển và lượng tử có lẽ vì một vấn đề chung: trong cả hai, đó chính là những ẩn số ta không biết tới, và sự không rõ này ngăn cản ta có một tiên đoán chính xác. Thế nhưng, ở đây có một sự khác biệt quyết định. Trong lúc những ẩn số trong vật lý cổ điển chỉ là cơ chế địa phương, thì trong lượng tử, chúng là liên thông; chúng có mối liên hệ tức thời trong toàn bộ vũ trụ. Trong đời sống hàng ngày, trong thế giới vĩ mô, các mối quan hệ liên thông tương đối không quan trọng, nên ta mới có thể nói về các vật thể riêng lẻ và phát biểu các định luật mô tả hoạt động của chúng bằng các trị số chắc chắn. Nhưng khi nghiên cứu ở kích thước nhỏ, tính chắc chắn được thay bằng tính xác suất và càng lúc càng khó tách vật nào trong vũ trụ ra khỏi cái toàn thể.
Sự hiện hữu của những mối quan hệ liên thông và vai trò quyết định của tính xác suất được suy ra từ đó là điều mà Einstein không bao giờ chịu chấp nhận. Đó chính là đề tài của cuộc tranh luận lịch sử của ông với Bohr trong những năm 1920, trong đó Einstein phát biểu sự bác bỏ của mình chống lại cách diễn dịch thuyết lượng tử của Bohr bằng ẩn dụ nổi tiếng: “Chúa không chơi trò súc sắc”. Cuối cùng, Einstein phải thừa nhận thuyết lượng tử, diễn giải bởi Bohr và Heisenberg, đã tạo ra một hệ thống tư tưởng nhất quán, nhưng ông vẫn tin nơi quan điểm quyết định luận, với các ẩn số địa phương trong tương lai sẽ được hiện ra.
Cái cốt tủy về sự bất đồng giữa Einstein với Bohr xuất phát từ lòng tin chắc chắn của Einstein nơi một thực tại bên ngoài, thực tại đó gồm có những yếu tố tách rời trong không gian và độc lập. Nhằm chứng minh rằng cách diễn giải của Bohr về thuyết lượng tử là không nhất quán, Einstein nghĩ ra một mô hình tư tưởng được biết đến cái tên Einstein-Podisky-Rosen (EPR). Ba thập niên sau, John Bell đề xuất một lý thuyết, dựa trên mô ình EPR, mô hình này chứng minh sự hiện hữu của ẩn số địa phương là không tương thích với những tiên đoán mang tính thống kê của thuyết lượng tử. Thuyết của Bell đã bác bỏ luận cứ của Einstein bằng cách cho thấy rằng hình dung một thực tại gồm các phần tử tách rời, nối với nhau bằng liên hệ địa phương là không thể tương thích với thuyết lượng tử.
Trong những năm qua, mô hình EPR vẫn liên tục được thảo luận và phân tích bởi các nhà vật lý quan tâm đến lý giải thuyết lượng tử, vì nó rất thích hợp để chỉ ra sự khác biệt giữa quan niệm cổ điển và quan niệm lượng tử. Đối với mục đích của ta, có lẽ chỉ cần mô tả một cách đơn giản mô hình này, nó gồm có hai electron tự quay tròn, dựa trên cách trình bày của David Bohm. Nhằm nắm bắt cốt tủy vấn đề, ta cần hiểu vài tính chất của electronspin. Hình ảnh của một quả bóng tennis quay quanh trục hoàn toàn không phù hợp để mô tả một hạt hạ nguyên tử có spin. Trong một nghĩa nhất định, spin là sự quay quanh trục của hạt, nhưng như nhiều lần đã xảy ra trong vật lý hạ nguyên tử, khái niệm cổ điển này bị hạn chế. Trong trường hợp của electron thì spin của hạt được giới hạn bởi hai trị số: trị số của spin không thay đổi nhưng electron có thể quay theo chiều này hoặc chiều kia, theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiều kim đồng hồ, qui vào một chiều đã cho sẵn. Nhà vật lý thường gọi hai trị số này là lên và xuống.
Tính chất quyết định của electron có spin, điều mà không nên hiểu theo nghĩa cổ điển, là trục quay của nó luôn luôn không xác định được một cách chắc chắn. Cũng như electron có khuynh hướng hiện hữu tại một chỗ nhất định, chúng cũng có khuynh hướng quay quanh một trục nào đó. Khi đo một trục quay bất kỳ nào đó, người ta tìm thấy electron đang quay theo chiều này hay chiều kia của trục. Nói cách khác, tiến trình đo lường đã cho hạt một trục quay nhất định, còn trước khi đo lường thì ta không thể nói nó có quay quanh một trục nhất định hay không; ta chỉ có thể nói nó có khả năng quay.
Với sự hiểu biết này về spin của electron, bây giờ ta hãy xét mô hình thí nghiệm EPR và thuyết của Bell. Mô hình thí nghiệm này xét hai hạt electron đang quay trái chiều với nhau, thế nên tổng số spin của chúng bằng không.
Có nhiều phương pháp thí nghiệm được sử dụng để đưa hai electron đó vào trong một trạng thái, trong đó chiều quay của mỗi spin không được biết đích xác nhưng tổng số spin của hai electron đó chắc chắn bằng không. Bây giờ ta giả định rằng hai electron đó bị cách ly ra xa bởi một tiến trình, triến trình đó không ảnh hưởng lên spin của chúng. Khi chúng bị tách ra mà chúng vẫn bị quay ngược chiều, tổng số spin của chúng bằng không, nhưng khi chúng đã thật xa nhau, hãy đo mỗi một spin của chúng. Một khía cạnh quan trọng của thí nghiệm này là khoảng cách giữa hai hạt này phải xa bất kỳ; một hạt có thể ở New york, hạt kia ở Paris, hay một hạt ở trên trái đất, hạt kia ở mặt trăng.
Hãy giả định rằng spin của hạt 1 được đo theo một trục đứng và được thấy là lên. Vì tổng số spin của hai hạt phải bằng không, số đo này cho ta biết spin của hạt hai phải là xuống. Thế nên khi đo spin của hạt 1, ta sẽ biết một cách gián tiếp spin của hạt 2 mà không đụng gì đến hạt này cả. Khía cạnh nghịch lý của thí nghiệm EPR xuất hiện từ thực tế là quan sát viên được tự do lựa chọn trục đo. Thuyết lượng tử cho ta biết rằng spin của hai electron này xung quanh mọi trục đều quay ngược chiều cả, nhưng chúng chỉ tồn tại như là khuynh hướng, hay khả năng, trước khi tiến trình đo lường được thực hiện. Bây giờ khi quan sát viên đã lựa chọn một trục nhất định và tiến hành đo, thì hành động này đã cho hai hạt một trục quay cụ thể. Điều quyết định là, như thế ta có thể lựa một trục quay ở thời điểm cuối, khi hai hạt đã xa nhau hẳn rồi. Ngay tức thời khi ta đo hạt 1, thì hạt 2 lúc đó đã cách xa vài ngàn dặm, thế mà sẽ nhận được một spin quanh trục ta chọn. Làm sao hạt 2 biết ta chọn trục nào được? Vì là tức thời, đâu có thời gian nào để nhận được thông tin từ một tín hiệu qui ước.
Đây là điểm chốt của thí nghiệm EPR và cũng là chỗ bất đồng của Einstein với Bohr. Theo Einstein thì, vì không có tín hiệu nào có thể đi nhanh hơn ánh sáng, nên không thể có một phép đo nào lên một electron lại tức thời xác định chiều quay của hạt kia, hạt cách xa vài ngàn dặm. Theo Bohr thì hệ thống hai hạt này là một cái toàn thể không chia cắt được, dù cho hai hạt bị cách ly ra xa nhau một khoảng cách lớn; hệ thống này cũng không thể được phân tích như hai phần tử độc lập. Ngay cả khi hai electron tách ra xa trong không gian, chúng vẫn nối với nhau bằng liên hệ tức thì, liên thông. Môi liên hệ này không phải là tín hiệu trong nghĩa của Einstein; chúngchuyển hóa khái niệm qui ước của ta về việc trao truyền thông tin. Thuyết của Bell hỗ trợ quan niệm của Bohr và chứng minh một cách rõ ràng rằng, cách nhìn của Einstein về thực tại vật lý gồm những yếu tố độc lập, nằm rải rác trong không gian, cách nhìn đó không tương thích với định luật của thuyết lượng tử. nói cách khác, thuyết của Bell chỉ rõ rằng vũ trụ là liên hệ cơ bản với nhau, phụ thuộc lẫn nhau và không tách rời được. Cũng như vị thánh nhân Phật giáo Long Thụ nói cách đây hàng trăm năm:
Tính chất và sự hiện hữu của sự vật xuất phát từ những mối tương quan mà ra, tự nó không có gì cả.
Hiện nay, các nghiên cứu trong vật lý nhằm mục đích thống nhất hai thuyết cơ bản, thuyết lượng tử và thuyết tương đối, trong một thuyết hoàn chỉnh cho các hạt hạ nguyên tử.
Chúng ta chưa đủ khả năng để phát biểu một thuyết hoàn chỉnh như thế, nhưng có nhiều thuyết và mô hình toàn phần, chúng mô tả rất tốt một số khía cạnh của hiện tượng hạ nguyên tử. Hiện nay ta có loại thuyết lượng tử – tương đối khác nhau cho vật lý hạt, chúng thành công trong những lĩnh vực khác nhau. Lý thuyết đầu là một nhóm lý thuyết trường (xem chương 14), nó được áp dụng cho tương tác điện từ và tương tác yếu; lý thuyết thứ hai là thuyết mang tên ma trận S (xem chương 17), nó được áp dụng thành công để mô tả tương tác mạnh. Một vấn đề lớn hiện nay chưa giải quyết được là sự thống nhất giữa thuyết lượng tử và thuyết tương đối tổng quát để hoàn thành một thuyết lượng tử trọng trường. Mặc dù gần đây sự phát triển của thuyết siêu trọng trường có thể được xem là một bước về hướng giải quyết vấn đề này, tới nay chưa tìm ra được một thuyết nào khả dĩ tốt hơn.
Các thuyết lượng tử, như trình bày chi tiết trong chương 14, đặt trên cơ sở của trường lượng tử, một đơn vị cơ bản, nó có thể hiện hữu ở trạng thái liên tục là trường, trong trạng thái phi liên tục là hạt, nhiều hạt khác nhau được xem như liên hệ với những trường khác nhau. Những thuyết này đã thay thế khái niệm xem hạt là vật thể cơ bản bằng nội dung một trường lượng tử tinh tế hơn nhiều. Tuy thế, các thuyết này vẫn xem có những đơn vị cơ bản và thế nên trong một nghĩa nhất định, vẫn là thuyết bán cổ điển, chúng không chỉ rõ được toàn thể tự tính lượng tử – tương đối của vật chất hạ nguyên tử.
Thuyết điện động lượng tử, thuyết đầu tiên của trường lượng tử, đạt thành quả là nhờ tương tác điện từ vốn rất yếu mà nhờ thế có thể giữ tính chất của một sự phân biệt cổ điển giữa vật chất và lực tương tác. Điều này cũng đúng với lý thuyết trường của tương tác yếu đã được nhận thấy rõ hơn hẳn trong thời gian qua, nhờ sự phát triển một loại thuyết mới về trường, được gọi là lý thuyết Gauge, nó có thể thống nhất hai tương tác này làm một. Trong thuyết thống nhất đó – được gọi là thuyết Weinberg – Salam để chỉ hai kiến trúc sư chính là Steven Weinberg và Abdus Salam – hai loại tương tác vẫn được phân biệt, nhưng về toán học chúng được nối với nhau và được gọi chung là tương tác điện từ yếu.
Thuyết Gauge cũng được mở rộng cho tương tác mạnh với sự phát triển một lý thuyết trường gọi là sắc động lượng tử (QCD), nhiều nhà vật lý đang cố gắng thiết lập một sự đại thống nhất giữa QCD và thuyết Weinberg – Salam. Tuy nhiên việc sử dụng thuyết Gauge để mô tả các hạt tương tác mạnh là hết sức khó khăn. Sự tương tác giữa hadron quá mạnh đến nỗi sự phân biệt giữa hạt và lực bị triệt tiêu và, vì thế, QCD không được sử dụng thành công để mô tả tiến trình có hạt gây tương tác mạnh. Nó chỉ ứng dụng được cho một số ít hiện tượng rất đặc biệt – trong tiến trình gọi là Deep Inelastic (tán xạ mạnh không đàn hồi) – trong đó hạt phản ứng, ta chưa hiểu hết lý do, hao hao giống như vật thể cổ điển. Dù có nhiều cố gắng lớn lao, nhà vật lý vẫn chưa áp dụng được QCD ngoài một số hiện tượng nhỏ hẹp và hy vọng ban đầu về vai trò của nó trong khuôn khổ lý thuyết nhằm suy ra tính chất của các hạt tương tác mạnh, tới nay hy vọng đó không được đáp ứng.
Sắc động lượng tử đại diện cho phát biểu toán học hiện nay về mô hình quark (xem chương 16), Trong đó trường được liên hệ với quark và chromo được dựa trên tính chất có màu của các trường quark này. Cũng như tất cả thuyết Gauge, QCD được mô hình hóa dựa theo động điện lượng tử (QED). Trong QED, tương tác điện từ được kiểm soát bởi sự hoán chuyển các gluon giữa các hạt quark có màu. Những hạt này không phải là hạt thật mà chỉ là loại lượng tử, chúng dán các quark với nhau để tạo thành menson và baryon.
Trong thập niên qua, mô hình quark được mở rộng và tinh tế hơn, đáng kể khi nhiều hạt mới được phát hiện trong thí nghiệm va chạm cao năng lượng. Như trình bày trong chương 16, mỗi một của ba hạt giả định ban đầu và được dán thêm các vị up, down và strange phải xuất hiện trong ba màu, và sau đó là một hạt quark thứ tư được giả định, cũng lại xuất hiện trong ba màu và được gắn thêm vị c-harm. Gần đây hơn, hai vị mới được thêm cho mô hình, được gọi là t và b, viết tắt của top và bottom (hay nói văn vẻ hơn, cho true và beautiful), chúng mang tổng số các hạt lên 18 – sáu vị và ba màu. Vì thế cũng chẳng ngạc nhiên gì khi nhiều nhà vật lý thấy đa số những đơn vị vật chất cơ sở này không hấp dẫn nữa và đã đề xuất là đã tới lúc nghĩ ra những hạt nhỏ hơn, thật sự cơ bản, những hạt đó là thành phần cấu tạo nên quark…
Trong lúc tất cả những lý thuyết và mô hình này phát triển, nhà thực nghiệm tiếp tục tìm kiếm các hạt quark thực sự, nhưng không tìm ra hạt nào cả và sự vắng mặt triền miên của các hạt quark trở thành vấn đề chính của mô hình quark. Trong khuôn khổ của QCD, hiện tượng vắng mặt quark đã được mang tên là quark bị giam, có nghĩa là hạt quark, vì lý do nào đó, đã bị giam giữ trong hadron và vì thế ta không bao giờ thấy nó. Nhiều cơ chế đã được đề ra để tính sự giam giữ của quark, nhưng tới nay chưa có lý thuyết nào hợp lý được đề xuất.
Đó là tình trạng hiện nay của mô hình quark: để lý giải cấu trúc được quan sát trong mọi hadron, ta cần ít nhất là 18 hạt quark cộng thêm 8 gluon; không hạt nào trong số đó được phát hiện có thật và sự hiện hữu của chúng với tính cách là thành phần của hadron sẽ đưa đến nhiều khó khăn về mặt lý thuyết; nhiều mô hình đã được đề xuất để giải thích sự giam giữ thường xuyên của nó nhưng không có thuyết nào cho thấy một thuyết động khả dĩ, trong lúc QCD, khuôn khổ lý thuyết của mô hình quark, chỉ có thể áp dụng trong phạm vi rất nhỏ hẹp của hiện tượng. Mặc những khó khăn đó, phần lớn các nhà vật lý vẫn còn đeo bám nơi ý niệm của những hạt cơ bản xây dựng nên vật chất, chúng đã bắt rễ sâu xa trong truyền thống khoa học phương Tây.
Phần lớn các phát triển đầy ấn tượng trong vật lý hạt, có lẽ, đã xảy ra gần đây trong thuyết ma trận S và phép Dung thông (xem chương 17 và 18), đó là thuyết không thừa nhận có một đơn vị nào là cơ bản mà tìm cách hiểu thiên nhiên một cách toàn thể thông qua tính chất tự tương thích của nó. Tôi đã nói rõ trong cuốn sách này là xem triết học dung thông là đỉnh cao của tư duy khoa học hiện nay và cũng đã nhấn mạnh đó là thuyết tới gần nhất với tư tưởng phương Đông, trong cả triết lý toàn thể và hình ảnh đặc biệt về vật chất. Đồng thời, nó cũng là cách tư duy rất khó cho nền vật lý, hiện nay chỉ có một số nhỏ nhà vật lý theo đuổi nó. Đối với phần lớn thành viên của cộng đồng vật lý thì triết học Dung thông quá xa lạ với cách suy nghĩ truyền thống để được trọng thị nghiêm túc, và sự thiếu trọng thị này cũng lan qua cho cả thuyết ma trận S. Điều kỳ lạ và nổi bật là, mặc dù những khái niệm cơ bản của thuyết này được tất cả nhà vật lý hạt sử dụng mỗi khi họ phân tích kết quả thí nghiệm phân tán và so sánh chúng với những tiên đoán lý thuyết, đến nay chưa có giải Nobel nào thừa nhận các nhà vật lý xuất sắc đã góp phần vào sự phát triển của thuyết ma trận S trong hai thập niên qua.
Sự thách thức lớn nhất đề ra cho thuyết ma trận S và Dung thông luôn luôn là quan tâm đến cấu trúc quark của hạt hạ nguyên tử. Mặc dù sự hiểu biết hiện nay của chúng ta về thế giới hạ nguyên tử loại bỏ sự hiện hữu của quark như hạt vật lý, không còn nghi ngờ gì tính đối xứng quark trong hadron sẽ được giải thích bằng một lý thuyết hoàn chỉnh về tương tác mạnh. Gần đây cách tiếp cận Dung thông không giải thích được những bất thường nổi bật đó, nhưng khoảng sáu mươi năm trở lại đây đã có một sự đột khởi trong thuyết ma trận S. Điều này đã được đúc kết trong Dung thông về hạt, thuyết này có thể giải thích các cấu trúc quan sát được của quark mà không cần giả định phải có sự hiện hữu của hạt quark lý tính. Hơn thế nữa, thuyết mới Dung thông làm sáng tỏ một số câu hỏi mà trước kia người ta không hiểu.
Để hiểu cốt tủy của sự phát triển mới này, ta cần làm rõ ý nghĩa của cấu trúc quark trong khuôn khổ của thuyết ma trận S. Trong mô hình quark thì hạt được hình dung chủ yếu như những trái banh bi-da, chúng chứa trong đó những trái banh bi-da nhỏ. Còn trong phép ma trận S, mang tính toàn thể và động, thì hạt là những cấu trúc năng lượng liên hệ với nhau trong một tiến trình vũ trụ đang vận hành; đang nối kết lẫn nhau, đang tương tác với nhau của những phần tử trong một tấm lưới vũ trụ không thể chia cắt. trong khuôn khổ như thế, từ cấu trúc quark nói đến thực tế là sự chuyển đổi năng lượng và dòng chảy của thông tin trong hệ thống biến cố phải đi theo những con đường được định nghĩa rõ ràng, đó là sinh ra Cái Hai liên hệ với Menson và Cái Ba liên hệ với Baryon. Đó là tính động tương tự như khi cho rằng hadron hàm chứa hạt quark. Trong thuyết ma trận S không có những đơn vị khác hẳn nhau và không có đơn vị xây dựng nào là cơ bản; chỉ có một dòng chảy của năng lượng cho thấy những cấu trúc được định nghĩa rõ ràng.
Thế thì, câu hỏi là làm sao những cấu trúc đặc trưng của quark xuất hiện được? Yếu tố then chốt của thuyết Dung thông mới là khái niệm về thứ bậc, nó là khía cạnh mới và quan trọng của vật lý hạt. Thứ bậc trong khung cảnh này là thứ bậc nằm trong tương quan của các tiến trình hạ nguyên tử. Có nhiều cách mà phản ứng hạt liên kết lẫn nhau và theo đó, người ta có thể định nghĩa nhiều loại thứ bậc. Ngôn ngữ của topology (công cụ toán học chuyên khảo sát một liên hệ) đã được các nhà toán học biết đến nhưng chưa bao giờ được áp dụng trong vật lý hạt – nay được sử dụng để phân loại thứ bậc được thể hiện trong khuôn khổ toán học của thuyết ma trận S, thì ngược lại, chỉ một ít thể loại của mối liên hệ có thứ bậc tương thích với tính chất của ma trận S đã biết. Các thể loại thứ bậc này rõ ràng là những cấu trúc quark đã được quan sát trong thiên nhiên. Thế nên, cấu trúc quark hiện ra, xem như biểu trưng của thứ bậc và nhất thiết phải tự tương thích, mà không cần phải giả định quark là phần cấu tạo hadron.
Sự phát sinh của thứ bậc như một khái niệm mới và trung tâm của vật lý hạt không chỉ dẫn đến một sự đột phá trong thuyết ma trận S, mà còn có thể mở những con đường đi xa cho toàn bộ khoa học. Hiện nay, ý nghĩa của thứ bậc trong vật lý hạ nguyên tử vẫn còn như bí ẩn và chưa được khám phá hoàn toàn. Tuy thế, thật thú vị khi thấy rằng, cũng như ba nguyên lý của ma trận S, khái niệm thứ bậc đóng một vai trò cơ bản trong việctiếp cận khoa học với thực tại và là khái niệm then chốt của phương pháp quan sát. Thừa nhận thứ bậc xem ra là một khía cạnh chủ yếu của tư duy; mỗi sự nhận thức một cấu trúc, trong một nghĩa nhất định, là một sự nhận thức thứ bậc. Làm sáng tỏ khái niệm về thứ bậc trong lĩnh vực nghiên cứu, trong đó cấu trúc của vật chất và cấu trúc của tinh thần càng lúc càng được xem là phản ánh lẫn nhau, việc đó hứa hẹn sẽ mở ra những chân trời hấp dẫn của nhận thức.
Theo Geoffrey Chew, người tiên phong đề xuất ý niệm Dung thông và cũng là nhân tố đoàn kết cũng như nguyên thủ triết học trong thuyết ma trận S của hai thập niên qua, việc mở rộng của cách tiếp cận Dung thông qua sự mô tả hadron có thể đưa đến khả năng bất ngờ là buộc phải đưa ý thức con người vào hẳn trong lý thuyết tương lai về vật chất. Chew viết “Một bước đi tương lai như thế, sẽ vô cùng sâu sắc hơn mọi thứ đã đạt được liên quan tới Hadron – Dung thông…”. Sự cố gắng hiện nay của chúng ta với hadron – Dung thông chỉ là khái niệm đầu tiên cho một dạng hình hoàn toàn mới của một nỗ lực của tư duy con người. Từ khi ông viết những dòng này, hầu như mười lăm năm qua, sự phát triển mới của ma trận S đã đưa Chew tới gần một cách đáng kể với vai trò ý thức. Hơn thế nữa, ông không phải là nhà vật lý duy nhất của hướng đi này. Trong những nghiên cứu gần đây, một trong những phát triển hứa hẹn nhất là một thuyết mới được đề xuất bởi David Bohm, có lẽ là người đi xa hơn bất kỳ ai khác về việc nghiên cứu mối liên hệ giữa ý thức và vật chất trong khung cảnh khoa học. Phép tiếp cận của Bohm là tổng quát hơn và tham vọng hơn thuyết hiện nay của ma trận S và có thể được xem là một cố gắng để dung thông không gian – thời gian, nhằm suy ra một thuyết tương thích của lượng tử – tương đối.
Điểm xuất phát của Bohm là, như tôi đã trình bày trong chương 10, nội dung của một cái toàn thể không tách rời và ông nhìn các mối liên hệ liên thông mà chúng đã được nêu trong thí nghiệm EPR, là một khía cạnh chủ yếu của cái toàn thể đó. Các liên hệ liên thông bây giờ là nguồn gốc của các phát biểu có tính chất thống kê trong các định luật của vật lý lượng tử, thế nhưng Bohm còn muốn đi xa hơn tính xác suất và sự phát hiện ra thứ bậc, đó là điều mà ông tin là tự tính của mạng lưới liên hệ vũ trụ tại một lĩnh vực sâu xa, phi hình tướng. Ông gọi thứ bậc này là nội tại hay ràng buộc, thứ bậc mà trong đó các mối liên hệ của cái toàn thể không can dự gì với nơi chốn trong thời gian hay không gian, chúng cho thấy một tính chất ràng buộc hoàn toàn khác.
Bohm sử dụng hình ảnh ba chiều hologram (ảnh toàn ký) như một ẩn dụ cho thứ bậc nội tại, vì tính chất đặc biệt của hình ảnh này là mỗi phần của nó, trong nghĩa nhất định, chứa đựng cái toàn bộ. Nếu mỗi phần của hologram được chiếu sáng lên, thì toàn bộ hình ảnh sẽ tái hiện, mặc dù nó ít chi tiết hơn là hình ảnh của hologram toàn thể. Theo cách nhìn của Bohm, thế giới thực tại có cơ cấu của nguyên lý đó, tức là cái toàn thể bị ràng buộc trong mỗi phần của chính nó.
Bohm thừa nhận rằng, tất nhiên, sự tương đồng với hologram quá hạn chế để có thể sử dụng nó như một mô hình khoa học cho thứ bậc nội tại trong lĩnh vực hạ nguyên tử, và để phát biểu tính chất động chủ yếu của thực tại trong lĩnh vực này, ông đã gắn chữ holomovement (vận động toàn thể) xem là nền tảng của mọi đơn vị hiện tượng. Theo cách nhìn của Bohm thì holomovement là một hiện tượng động, từ đó mọi dạng của vũ trụ vật chất xuất ra. Mục đích của sự tiếp cận này là nghiên cứu thứ bậc ràng buộc trong holomovement, không phải thông qua cấu trúc vật thể, mà với cấu trúc của sự vận hành, nhờ thế mà đáp ứng được hai đòi hỏi của tính nhất thể và tính động của vũ trụ.
Theo Bohm không gian và thời gian đều là sắc thể, xuất phát từ holomovement mà ra; chúng cũng bị ràng buộc trong thứ bậc của chúng. Bohm tin rằng sự hiểu biết thứ bậc nội tại sẽ không chỉ dẫn đến một sự hiểu biết toàn diện hơn về xác suất trong vật lý lượng tử, mà còn cho phép ta suy ra những tính chất cơ bản của không gian – thời gian tương đối. Thế nên, thuyết về thứ bậc nội tại sẽ cung cấp một cơ sở chung cho cả hai thuyết lượng tử và tương đối.
Nhằm hiểu thứ bậc nội tại, Bohm cho rằng cần phải xem ý thức là môt đặc trưng chủ yếu của holomovement và phải đưa hẳn nó vào trong lý thuyết của mình. Ông xem tinh thần và vật chất là phụ thuộc lẫn nhau và tương thích với nhau, nhưng không nối nhau theo tính nhân quả. Cả hai đều là sự phản chiếu, ràng buộc lẫn nhau, của một thực tại cao hơn, thực tại đó không phải vật chất cũng chẳng phải ý thức.
Hiện nay, thuyết của Bohm vẫn còn nằm trong dạng thử nghiệm và mặc dù ông đã phát triển một dạng toán học gồm ma trận và topology, phần lớn những phát biểu của ông vẫn còn định tính hơn định lượng. Tuy thế, dù mới ở giai đoạn ban đầu, thuyết của ông về thứ bậc nội tại dường như tương cận với thuyết Dung thông của Chew. Cả hai tiếp cận này dựa trên thế giới quan chung của một mạng lưới động gồm toàn liên hệ; cả hai cho khái niệm thứ bậc nội tại dường như tương cận với thuyết Dung thông của Chew. Cả hai tiếp cận này dựa trên thế giới quan chung của một mạng lưới động gồm toàn liên hệ; cả hai cho khái niệm thứ bậc có một vai trò trung tâm; cả hai sử dụng ma trận để biểu diễn sự thay đổi và chuyển hóa và dùng topology để phân loại thứ bậc. Cuối cùng, cả hai tiếp cận này đều thừa nhận là ý thức có lẽ là khía cạnh chủ yếu của vũ trụ, nó cần được gắn vào trong lý thuyết của tương lai về hiện tượng vật lý. Một lý thuyết như thế có thể xuất phát từ sự hợp nhất hai thuyết của Bohm và Chew, nó sẽ đại diện cả hai tiếp cận sáng tạo nhất và mang tính triết học sâu xa về thực tại vật lý.
Tương Lai của Nền Vật Lý Mới
Lời cuối cho bản in lần thứ ba
HÌNH ẢNH
Nguồn gốc của Đạo của vật lý xuất phát từ trong một thể nghiệm mạnh mẽ mà tôi trải qua trong mùa hè năm 1969 trên bãi biển ở Santa Cruz, được mô tả trong lời nói đầu của sách này. Một năm sau, tôi rời California để tiếp tục việc nghiên cứu ở Imperial College ở London, và trước khi tôi đi ghép một tấm hình – Shiva nhảy múa, ngự trị trên các hạt đang va chạm trong buồng đo – để minh họa chứng nghiệm của tôi về sự nhảy múa vũ trụ trên bãi biển. Hình ảnh đẹp tuyệt này đối với tôi là biểu tượng của sự song hành giữa vật lý và đạo học mà tôi vừa bắt đầu khám phá. Một ngày nọ, cuối thu năm 1970, khi ngồi trong nhà gần Imperial College và nhìn bức tranh, bỗng nhiên tôi có một nhận thức rất rõ ràng. Tôi biết với một sự chắc chắn tuyệt đối rằng sự tương đồng giữa vật lý hiện đại và đạo học phương Đông ngày nào đó sẽ trở thành nhận thức chung; và tôi cũng cảm thấy mình đang ở vị trí tốt nhất để phát hiện ra những sự tương đồng này một cách nhất quán và để viết một cuốn sách về chúng.
Năm năm sau, mùa thu năm 1975, Đạo của vật lý được xuất bản lần đầu. Bây giờ, mười lăm năm sau, tôi muốn nêu nhiều câu hỏi: Hình ảnh tôi thấy đã trở thành sự thực? Phải chăng những tương đồng giữa vật lý hiện đại và đạo học phương Đông ngày nay dứt khoát đã là nhận thức chung hay, ít nhất, đang trở thành nhận thức chung? Liệu luận điểm đầu tiên của tôi còn có giá trị hay nó cần phát biểu lại? Đâu là những phê bình chính yếu về luận điểm của tôi và ngày nay tôi phải trả lời thế nào? Và cuối cùng, bản thân những cái nhìn của tôi, chúng biến đổi như thế nào và đâu là chỗ để có thể thực hiện những công trình tương lai? Trong lời cuối này, tôi muốn trình bày những câu trả lời của mình về những câu hỏi đó, với tất cả cẩn trọng và thành thực.
Tác động của cuốn sách
Mười lăm năm qua, Đạo của vật lý đã được độc giả nồng nhiệt đón nhận, điều này đã vượt qua sự mong chờ táo bạo nhất của tôi. Khi viết, bè bạn tại London nói với tôi rằng bán được mười ngàn cuốn sách đã là một thành công lớn, và tôi âm thầm hy vọng rằng sẽ bán được năm mươi ngàn cuốn. Ngày nay số sách bán ra toàn thế giới đã lên đến trên một triệu cuốn: Đạo của vật lý đã được dịch ra hơn mười mấy ngôn ngữ; các bản dịch khác đang được chuẩn bị và những bản in khác đang in và bán chạy.
Sự đáp ứng to lớn này đã có tác động mạnh mẽ to lớn trong đời tôi . Trong suốt mười lăm năm qua tôi đã đi rất nhiều, đã diễn thuyết trước những cử tọa chuyên ngành và không chuyên, tại Mỹ, châu Âu, châu Á và thảo luận về những hướng đi của nền vật lý mới với mọi người trong mọi nẻo đường của đời sống. Những sự thảo luận này đã giúp tôi rất nhiều để hiểu được hết khung cảnh văn hóa rộng rãi của tác phẩm mình, và bây giờ tôi thấy chính khung cảnh này là lý do chính của sự đón tiếp nồng nhiệt đó. Tôi luôn luôn được chứng kiến lại cảnh cuốn sách và bài nói của mình đã gây một cộng hưởng mạnh mẽ trong mọi người. Đã nhiều lần mọi người viết cho tôi hoặc nói với tôi sau buổi thuyết giảng: “Ông đã nói lên một điều mà tôi đã cảm thấy từ lâu mà không viết được bằng lời”. Thường thường những người đó không phải là nhà khoa học, họ cũng chẳng phải nhà đạo học. Họ là những người bình thường và cũng lại là những người rất lạ: nghệ sĩ, bà già, thương nhân, giáo viên, nông gia, cô y tá; những người thuộc mọi lứa tuổi, nhiều người trên hay dưới năm mươi. Một số ít là những vị già cả. Phần lớn những bức thư cảm động nhất là của những cụ già trên bảy mươi, trên tám mươi và trong hai ba trường hợp là cả trên chín mươi!
Đạo của vật lý đã đánh thức được gì trong những con người này ? Bản thân họ đã có chứng nghiệm gì? Tôi đã tới chỗ phải tin rằng sự thừa nhận mối tương đồng giữa vật lý hiện đại và đạo học phương Đông là yếu tố của một quá trình vận động to lớn, một sự thay đổi tận gốc rễ của thế giới quan, hay các mẫu hình của khoa học và xã hội, nó đang diễn ra rộng khắp ở châu Âu và Bắc Mỹ và dẫn đến một sự chuyển hóa văn hóa sâu sắc. Sự chuyển hóa này, sự thay đổi ý thức sâu đậm này, chính là điều mà nhiều người cảm thấy một cách trực giác trong hai hay ba thập niên vừa qua, và đó là lý do tại sao Đạo của vật lý đã tạo ra một tác động như thế.
Sự thay đổi mẫu hình
Trong cuốn sách thứ hai , The Turning Point (Bước ngoặt), tôi đã nghiên cứu hệ quả xã hội của sự thay đổi hiện nay về các mẫu hình. Điểm xuất phát của sự nghiên cứu này là khẳng định rằng các vấn đề chính của thời đại chúng ta – sự đe dọa chiến tranh hạt nhân, sự hủy hoại môi trường sống, sự bất lực của chúng ta khi đối đầu với cảnh nghèo nàn và đói khát trên thế giới, nếu chỉ kể những vấn đề trọng đại nhất – tất cả là những mặt khác nhau của một cuộc khủng hoảng duy nhất, đó chủ yếu là một cuộc khủng hoảng về nhận thức. Chúng xuất phát từ sự thực là phần lớn chúng ta – và đặc biệt là cơ chế xã hội to lớn của ta – nằm dưới những khái niệm và giá trị của một thế giới quan lỗi thời, dưới những mẫu hình không đủ sức để đối trị những vấn đề của một thế giới nhân mãn, liên hệ lẫn nhau một cách toàn cầu. Đồng thời, đáng mừng thay, nhiều nhà nghiên cứu của những ngành mũi nhọn khoa học, các phong trào xã hội khác nhau, và nhiều nhà mạng lưới khác cũng đang phát triển một tầm nhìn mới về thực tại, nó sẽ hình thành cơ sở của ta về các công nghệ tương lai, hệ thống kinh tế và cơ chế xã hội.
Những mẫu hình bây giờ bắt đầu rút lui là những thứ đã ngự trị trên nền văn hóa của chúng ta từ vài trăm năm nay, nó đã khắc họa đời sống xã hội phương Tây và ảnh hưởng quyết định lên thế giới còn lại. Những mẫu hình này gồm có một số ý niệm và giá trị, trong đó vũ trụ quan là một hệ thống cơ học gồm có các hạt cơ bản, cách nhìn thân người như một cái máy, cách nhìn cuộc đời là một sự đấu tranh giành giật kiếm sống, niềm tin nơi sự tiến bộ vô tận của vật chất giành được bằng sự lớn mạnh kinh tế và kỹ thuật, và – cuối cùng, không phải là không quan trọng – niềm tin rằng xã hội trong đó nữ giới luôn luôn nằm dưới sự lãnh đạo của nam giới là tự nhiên. Trong những thập niên qua, tất cả những giả định đó đã được khám phá ra hết sức hạn chế và cần sửa đổi một cách triệt để.
Thực tế là sự sửa đổi đó đang diễn ra. Những mẫu hình mới đang xuất hiện có thể mô tả bằng nhiều cách khác nhau. Nó có thể gọi là thế giới quan toàn thể, xem thế giới như là một thể thống nhất chứ không phải là tập hợp của nhiều thành phần. Nó cũng có thể được gọi là một thế giới quan sinh thái và đó là từ mà tôi thấy đúng nhất. Tôi dùng từ sinh thái ở đây trong nghĩa rộng và sâu hơn người ta dùng. ý thức sinh thái trong nghĩa sâu này thừa nhận mối tương quan của tất cả hiện tượng là cơ bản và bao gồm cá thể lẫn xã hội trong một tiến trình có chu kỳ của thiên nhiên.
Mẫu hình sinh thái được khoa học hiện đại hỗ trợ, nhưng nó bắt rễ từ một nhận thức về thực tại, nhận thức đó thoát khỏi khuôn khổ khoa học để tới với một ý thức về sự nhất thể trong mọi đời sống, sự liên hệ lẫn nhau của những hiện tượng muôn vẻ và những chu kỳ về thay đổi và chuyển hóa của chúng. Cuối cùng, ý thức sinh thái sâu xa đó là ý thức về tinh thần. Khi khái niệm của tinh thần con người được hiểu như là dạng của ý thức, với nó, con người cảm thấy mình nối liền với vũ trụ như một cái toàn thể, thì rõ là ý thức sinh thái mang tính tâm linh trong nghĩa sâu nhất, và khi đó sẽ không lạ gì nếu hình ảnh mới về thực tại rất hòa điệu với hình ảnh của các truyền thống tâm linh.
Bây giờ, ta có thể nói rõ về khung cảnh rộng rãi của Đạo của vật lý. Nền vật lý mới là một phần không tách rời của thế giới quan mới, nó đang xuất hiện trong mọi khoa học và xã hội. Thế giới quan mới là một thế giới quan sinh thái, nói cho cùng thì có đặt cơ sở trên ý thức tâm linh.
Luận điểm ban đầu của tôi như thế vẫn còn giá trị và rõ hơn khi được phát biểu lại và đặt trong một khung cảnh rộng hơn. Đồng thời, nó cũng được khẳng định bởi những phát triển gần đây trong các ngành khoa học khác, đáng kể nhất trong sinh vật và tâm lý học,và bây giờ tôi thấy mình đứng trên một sơ sở vững chắc hơn nhiều. Thậm chí bây giờ còn rõ hơn trước là đạo học hay triết học vĩnh cửu, có người gọi như thế, cung cấp những cơ sở triết học nhất quán cho các mẫu hình khoa học mới.
Sự thừa nhận này chưa phải là nhận thức chung của mọi người, nhưng nó đang mở rộng một cách vững chắc, bên trong và bên ngoài khoa học. Theo vết của Đạo của vật lý có khoảng ít nhất cả chục cuốn sách rất thành công nói về mối liên hệ giữa khoa học hiện đại và truyền thống đạo học, và cũng có nhiều hội nghị quốc tế lớn về đề tài này thu hút nhiều nhà khoa học xuất sắc, kể cả vài vị đoạt giải Nobel, cũng như đại diện cao cấp của các tổ chức truyền thống tâm linh. Thông điệp ban đầu của tôi đã được nhân lên rộng rãi trong các biến cố đó.
Ảnh Hưởng của Heisenberg và Chew
Bây giờ tôi xin trở lại những mẫu hình mới trong khoa học và thảo luận về những đặc trưng chính của chúng. Gần đây tôi đã thử tìm một nhóm những tiêu chuẩn cho tư duy về mẫu hình mới trong khoa học. Tôi đề xuất sáu tiêu chuẩn; hai cái đầu nói về cách nhìn về thiên nhiên, bốn cái sau về nhận thức luận của chúng ta. Tôi nghĩ rằng bốn tiêu chuẩn này là đặc trưng cho tư duy theo mẫu hình mới trong tất cả mọi khoa học, nhưng như đã nói trong lời cuối của Đạo của vật lý, tôi sẽ minh họa chúng với các thí dụ của ngành vật lý, và tôi sẽ nhắc lại ngắn gọn chúng được phản ánh trong các truyền thống đạo học phương Đông như thế nào.
Trước khi đi vào thảo luận sáu tiêu chuẩn, tôi xin nhắc lại với lòng biết ơn sâu xa món nợ của tôi đối với hai nhà vật lý xuất chúng, hai vị đó để lại nơi tôi nguồn cảm hứng chủ yếu và đã ảnh hưởng quyết định lên tư duy khoa học của tôi: Werner Heisenberg và Geoffrey Chew. Tác phẩm của Heisenberg Physics and Philosophy, thành tựu cổ điển của ông về lịch sử và triết học và triết học của vật lý lượng tử, đã tạo ảnh hưởng to lớn khi tôi còn là sinh viên bắt đầu đọc cuốn đó. Cuốn sách này trở thành bạn đồng hành của tôi suốt thời gian học tập và công tác với tư cách nhà vật lý, và hôm nay tôi thấy chính Heisenberg đã gieo những hạt giống cho Đạo của vật lý. Tôi có may mắn được gặp Heisenberg trong đầu những năm bảy mươi. Tôi đã có những cuộc thảo luận dài với ông và khi tôi hoàn tất Đạo của vật lý , tôi cùng ông dò suốt lại bản thảo, từng chương. Chính sự hỗ trợ và cảm hứng của cá nhân Heisenberg đã cùng tôi đi hết những năm tháng khó khăn; những lúc cô đơn không ai ủng hộ khi tôi phát triển và trình bày một ý niệm hoàn toàn mới.
Geoffrey Chew thuộc về một thế hệ khác với Heisenberg và với các nhà sáng lập lớn khác của ngành vật lý lượng tử, và tôi không nghi ngờ gì các nhà lịch sử tương lai của khoa học sẽ đánh giá sự cống hiến của ông cho nền vật lý của thế kỷ 20 cũng xuất sắc như các vị kia. Nếu Einstein làm cuộc cách mạng cho tư tưởng khoa học với thuyết tương đối, còn Bohr và Heisenberg với giải thích về cơ học lượng tử đã mang lại những thay đổi đảo lộn mà bản thân Einstein cũng từ chối không chấp nhận, thì Chew đã làm bước cách mạng thứ ba trong nền vật lý thế kỷ 20. Thuyết Bootstrap (Dung thông) của ông về hạt đã thống nhất cơ học lượng tử và thuyết tương đối trong một thuyết, thuyết này tiêu biểu sự từ bỏ quyết liệt cách tiếp cận của phương Tây về khoa học cơ bản.
Tôi bị lý thuyết và triết học của Chew thu hút mãnh liệt kể từ ngày tôi gặp ông cách đây hai mươi năm và tôi có hân hạnh được cộng tác chặt chẽ và liên tục trao đổi tư tưởng với ông. Những cuộc thảo luận thường xuyên này là suối nguồn của sự cảm hứng liên tục và đã hình thành một cách quyết định toàn bộ quan điểm khoa học của tôi.
NHỮNG MẪU HÌNH MỚI TRONG TƯ DUY KHOA HỌC
Bây giờ tôi xin phép trở lại sáu tiêu chuẩn về những mẫu hình tư duy mới trong tư duy khoa học.
Tiêu chuẩn thứ nhất nói đến mối quan hệ giữa cái riêng biệt và cái toàn thể. Trong mẫu hình khoa học có tính cơ khí cổ điển, người ta tin rằng sự vận động của mỗi hệ thống phức tạp có thể được hiểu thông qua tính chất của từng thành phần riêng biệt. Một khi ta biết các thành phần riêng biệt – tính chất cơ bản của chúng và cơ chế tương tác của chúng – ta có thể suy ra, ít nhất về mặt nguyên lý, sự vận động của cái toàn thể. Vì thế nguyên tắc là nhằm tìm hiểu mọi hệ thống phức tạp, ta phá vỡ nó ra từng mảnh nhỏ. Bản thân các mảnh này không được dùng để giải thích gì thêm, trừ phi ta lại bẻ nhỏ chúng ra những mảnh nhỏ hơn. Cứ tiếp tục mãi trong quá trình này, ta luôn luôn sẽ đến một chỗ dừng, đó là tại một nơi mà ta có những hạt cơ bản xây dựng nên hệ thống: những yếu tố, những chất liệu, những hạt, và vân vân – với những tính chất mà ta không giải thích được nữa. Từ những đơn vị cơ bản này với những qui luật căn bản hay sự tương tác của chúng, ta sẽ xây dựng lại một toàn thể to lớn và tìm cách giải thích sự vận động của nó bằng tính chất của các thành phần riêng biệt. Cách này đã khởi đầu với Democritus trong thời thượng cổ Hy Lạp; đó là tiến trình đã được thành hình với Descartes và Newton, và đó la cách nhìn khoa học được thừa nhận đến thế kỷ 20.
Trong mẫu hình mới, mối liên hệ giữa cái toàn thể và cái riêng biệt đối xứng hơn nhiều. Ta tin rằng, trong lúc tính chất của cái riêng biệt dĩ nhiên giúp cho sự hiểu biết về cái toàn thể, đồng thời tính chất của cái riêng biệt cũng chỉ có thể được hiểu hết thông qua sự vận động của cái toàn thể. Cái toàn thể là chủ đạo, và một khi ta hiểu sự vận hành của cái toàn thể thì ta có thể suy ra, ít nhất trên mặt nguyên tắc, tính chất và cấu trúc tương tác của các thành phần riêng biệt. Sự thay đổi này trong mối quan hệ giữa cái toàn thể và cái riêng biệt xảy ra trong khoa học trước hết trong ngành vật lý, khi thuyết lượng tử được phát triển. Trong những năm đó, nhà vật lý phát hiện ra với sự kinh ngạc lớn lao rằng họ không thể sử dụng khái niệm của một thành phần – thí dụ một nguyên tử hay một hạt – trong nghĩa cổ điển. Thành phần riêng biệt không còn được định nghĩa rõ ràng được nữa. Chúng cho thấy nhiều tính chất khác nhau, tùy theo khuôn khổ thí nghiệm khác nhau.
Dần dần, nhà vật lý nhận ra rằng, thiên nhiên, trong lĩnh vực nguyên tử, không xuất hiện như một vũ trụ cơ học gồm có các đơn vị xây dựng cơ bản, mà như một mạng lưới của các mối liên hệ và rằng, cuối cùng, chẳng có thành phần riêng tư nào cả trong mạng lưới liên hệ chằng chịt đó. Cái mà ta gọi là thành phần chỉ là cấu trúc có một sự ổn định nhất định và gây nơi ta sự chú ý. Heisenberg là người bị ấn tượng hết sức mạnh về mối quan hệ mới của cái toàn thể và cái riêng biệt, đến nỗi ông đặt tên cho tác phẩm tự thuật đời mình là Der Teil und das Ganze (Cái riêng biệt và cái toàn thể).
Sự thừa nhận của tính thống nhất và mối liên hệ qua lại của mọi sự vật và biến cố, sự chứng thực rằng mọi hiện tượng đều là dạng xuất hiện của một cái nhất cơ bản, đó cũng là đặc trưng chung quan trọng nhất của thế giới quan phương Đông. Người ta có thể nói đó là cái cốt tủy của mọi quan niệm đó. Tất cả mọi sự vật được xem là liên hệ chằng chịt với nhau, không tách rời nhau, và chúng đều là cấu trúc của một thể thực tại cuối cùng.
Tiêu chuẩn thứ hai của mẫu hình tư duy mới trong khoa học liên hệ tới sự thay đổi, thay quan niệm về cơ cấu bằng quan niệm về tiến trình. Trong mẫu hình cũ, người ta nghĩ rằng có những cấu trúc cơ bản, và rồi có lực và cơ chế thông qua đó mà lực tác động, rồi vì thế mà sinh ra tiến trình. Trong mẫu hình mới, ta nghĩ tiến trình là chủ đạo, mỗi một cấu trúc mà ta quan sát được đều là dạng xuất hiện của một tiến trình cơ bản.
Tư duy tiến trình này đi vào vật lý với thuyết tương đối của Einstein. Sự nhận thức khối lượng là một dạng của năng lượng đã loại bỏ khái niệm của một chất liệu vật chất ra khỏi khoa học, và với sự loại bỏ này, nó không còn là một cấu trúc cơ bản nữa. Các hạt hạ nguyên tử không phải do bất cứ vật chất nào tạo thành; tất cả chúng đều là cấu trúc của năng lượng. Thế nhưng, năng lượng luôn luôn được kết hợp với hoạt động, với tiến trình, và điều này dẫn đến thực tế là các hạt hạ nguyên tử đều tự nó là động. Khi quan sát chúng, không bao giờ ta thấy chất liệu nào cả, cũng không cấu trúc cơ bản nào cả. Điều ta thấy chỉ là cấu trúc động của sự biến hóa liên tục từ cái này qua cái khác – một điệu vũ liên tục của năng lượng.
Tư duy tiến trình cũng là đặc trưng chủ yếu của truyền thống đạo học phương Đông. Phần lớn các khái niệm, linh ảnh và huyền thoại của họ đều chứa thời gian và biến đổi như là yếu tố cốt tủy. Càng nghiên cứu kinh sách của Ấn Độ giáo, Phật giáo và Lão giáo, ta càng thấy rõ trong tất cả giáo pháp đó, thế giới được nhận thức trong sự vận động, trôi chảy, và biến đổi. Rõ ràng là hình ảnh của điệu múa vũ trụ của Shiva, trong đó mọi sắc thể đều liên tục hình thành và biến hoại, đã mở cho tôi cặp mắt để thấy những tương đồng giữa vật lý hiện đại và đạo học phương Đông.
Trong vật lý hiện đại, hình ảnh vũ trụ như một bộ máy đã được thay thế bằng một cái toàn thể liên hệ chằng chịt lẫn nhau, trong đó các thành phần riêng biệt chủ yếu phụ thuộc lẫn nhau và cần phải được hiểu như những câú trúc của một tiến trình vũ trụ. Nhằm định nghĩa một vật thể trong mạng lưới đầy những liên hệ này, ta cắt rời một số liên hệ đó – một cách khái niệm, cũng như xem nó có một cách vật lý với thiết bị đo lường của chúng ta – và với cách đó ta cô lập một số cấu trúc và xem chúng là vật thể. Nhiều quan sát viên có thể làm nhiều cách khác nhau. Thí dụ khi ta xác định một electron, ta có thể cắt vài mối liên hệ của nó với thế giới còn lại bằng cách sử dụng nhiều phương pháp quan sát khác nhau. Vì thế mà electron có thể xuất hiện như một hạt, và nó có thể xuất hiện như một sóng. Điều ta thấy tùy thuộc nơi ta nhìn nó như thế nào.
Heisenberg chính là người đã mang vai trò hệ trọng của quan sát viên vào trong vật lý lượng tử. Theo Heisenberg, ta không bao giờ có thể nói về thiên nhiên mà không đồng thời nói về chính ta. Và đó sẽ là tiêu chuẩn thứ ba của tôi trong mẫu hình tư duy mới của khoa học. Tôi nghĩ rằng điều này có giá trị cho mọi khoa học hiện đại, và tôi muốn gọi nó là sự biến đổi từ khoa học khách quan qua khoa học bị nhận thức chi phối. Trong mẫu hình cũ, mô tả khoa học được cho là khách quan, tức là, độc lập với người quan sát và với quá trình nhận thức. Trong mẫu hình mới, ta tin rằng Epistemology – tức là khoa học về quá trình nhận thức – phải được đưa hẳn vào trong sự mô tả hiện tượng thiên nhiên. Tại điểm này chưa có một sự đồng thuận trong giới khoa học thế nào là Epistemology đúng nghĩa, nhưng có một sự đồng ý chung là Epistemology phải là một phần hội nhập trong mọi lý thuyết khoa học.
Ý niệm cho rằng tiến trình của nhận thức phải là một phần khăng khít của con người về thực tại thì mỗi học trò của đạo học đều biết rõ.
Nhận thức tâm linh không bao giờ được đạt tới bằng loại quan sát khách quan, cách ly; luôn luôn nó đòi hỏi sự tham gia hoàn toàn của toàn bộ hành giả. Thực tế là, đạo học đi xa hơn nhiều so với quan điểm của Heisenberg. Trong vật lý lượng tử, người quan sát và vật bị quan sát không thể chia cắt, nhưng hai cái đó tiếp tục bị phân biệt. Còn đạo học, trong sự thiền định sâu xa thì sự phân biệt giữa người quan sát và vật bị quan sát hoàn toàn xóa nhòa, trong đó người và vật hòa nhập làm một.
Tiêu chuẩn thứ tư của mẫu hình tư duy mới, có thể là sâu sắc nhất trong tất cả và là khó chấp nhận nhất đối với nhà khoa học. Nó liên quan đến hình dung xưa cũ về nhận thức, xem nhận thức là một tòa kiến trúc. Nhà khoa học hay nói về những định luật căn bản, hay nói về nền tảng, hay cơ sở của một tòa kiến trúc của nhận thức. Kiến thức phải được xây dựng trên nền tảng vững vàng; có những hạt chất liệu cơ bản của vật chất; có những phương trình cơ bản, những hằng số cơ bản, những nguyên lý cơ bản. Hình tượng nhận thức là một toà kiến trúc với một nền tảng chắc chắn đã được sử dụng suốt trong nền khoa học và triết lý phương Tây từ mấy ngàn năm nay.
Tuy thế, nền tảng của nhận thức khoa học, không phải luôn luôn vững chắc. Chúng liên tục bị dời đổi và nhiều lần đã hoàn toàn bị đảo lộn. Bất cứ lúc nào mà một cuộc cách mạng khoa học quan trọng xảy ra, người ta đều cảm thấy nền tảng khoa học bị lay chuyển. Như Descartes viết trong tác phẩm nổi tiếng Discourse on Method (Thảo kuận về phương pháp) trong thời đại của ông: “Tôi nhận thấy rằng chẳng có gì chắc chắn để có thể xây dựng trên đó với nền tảng cứ bị thay đổi luôn thế này”. Sau đó Descartes đã xây dựng nên một nền khoa học mới trên nền tảng chắc chắn, nhưng ba trăm năm sau, Einstein trong tác phẩm tự thuật đời mình, đã viết những dòng sau đây về phát triển của vật lý lượng tử: “Hầu như đất dưới chân tôi bị sụt lở, không ở đâu còn thấy một nền tảng vững chắc nữa, mà trên đó người ta có thể xây dựng một điều gì”.
Lặp đi lặp lại suốt cả lịch sử khoa học, ta luôn luôn thấy nền tảng của nhận thức bị dời đổi, thậm chí bị nghiền nát. Mẫu hình này lại cho khoa học nhớ tới cảm giác như thế, nhưng có thể lần này là lần cuối; không phải là vì không có tiến bộ hay không có thay đổi nữa, mà vì sẽ không có nền tảng nào cả trong tương lai. Có lẽ chúng ta sẽ không thấy cần thiết, trong khoa học tương lai, phải xây dựng nhận thức của mình trên một nền tảng chắc chắn, và ta có thể thay thế hình ảnh của một tòa kiến trúc bằng hình ảnh của một mạng lưới. Cũng chính vì nếu nhìn thực tại quanh ta như một mạng lưới đầy mối liên hệ, thì sự mô tả – hay khái niệm, mô hình, lý thuyết – của ta cũng tạo thành một mạng lưới trình bày các hiện tượng được quan sát. Trong một mạng lưới như thế, không có cái gì là chủ yếu hay thứ yếu, và không có cái gì là cơ bản cả.
Hình ảnh mới về nhận thức như một mạng lưới, vắng bóng nền tảng là hết sức khó chịu đối với nhà khoa học. Nó được Geoffrey Chew là người đầu tiên nêu ra cách đây ba mươi năm trong thuyết Bootstrap (Dung thông) về hạt.
Theo thuyết Dung thông, thiên nhiên không thể được qui lại trên vài đơn vị cơ bản, như những hạt cơ bản vật chất, mà nó phải được hiểu một cách toàn bộ thông qua sự tự dung thông, sự tự tương thích. Sự vật hiện hữu thông qua mối liên hệ tương thích lẫn nhau giữa chúng, và tất cả mọi ngành vật lý chỉ việc tuân thủ đòi hỏi rằng mọi yếu tố phải tương thích lẫn nhau và với chính bản thân chúng.
Suốt ba mươi năm qua, cùng với các cộng sự, Chew đã sử dụng cách tiếp cận Dung thông để đề ra một lý thuyết phù hợp về hạt hạ nguyên tử, cùng với một triết lý chung về thiên nhiên. Triết lý Dung thông này không những khước từ ý niệm về hạt vật chất cơ bản, mà còn không chấp nhận bất cứ đơn vị gì là cơ bản – không có hằng số cơ bản, định luật hay phương trình. Vũ trụ vật chất chỉ được xem là một mạng lưới động gồm các biến cố tác động lên nhau. Không có tính chất nào của bất cứ thành phần riêng biệt nào của mạng lưới là cơ bản; tất cả chúng đều tuân thủ các tính chất của toàn thể các thành phần khác, và sự dung thông ăn khớp toàn bộ của những mối liên hệ chằng chịt của chúng là nhân tố xác định cấu trúc của toàn mạng lưới.
Theo ý kiến tôi, việc triết lý Dung thông không chấp nhận đơn vị cơ bản nào biến nó thành một trong những hệ thống sâu sắc của tư tưởng phương Tây. Đồng thời, nó xa lạ với truyền thống tư duy khoa học của ta, nên nó ít được các nhà vật lý chấp nhận. Tuy thế, sự từ chối chấp nhận đơn vị cơ bản thật ra là rất chung trong tư tưởng phương Đông, đặc biệt trong Phật giáo. Thật sự là sự tương phản giữa nhà Cơ bản và nhà Dung thông trong ngành vật lý hạt cũng song hành như sự tương phản giữa tư tưởng đang ngự trị tại phương Tây và phương Đông. Việc qui thiên nhiên về lại trên các đơn vị cơ sở chủ yếu là dựa trên cách tiếp cận tư tưởng của Hy lạp, nó sinh ra trong triết lý Hy Lạp với tính nhị nguyên của vật chất và tinh thần.Còn cái nhìn vũ trụ như là một mạng lưới đầy liên hệ, vắng bống đơn vị cơ sở, là đặc trưng của tư tưởng phương Đông. Người ta tìm thấy sự phát biểu rõ rệt nhất và luận giải rộng rãi nhất trong Đại thừa Phật giáo, và hồi tôi viết Đạo của vật lý, tôi đã đưa liên hệ mật thiết giữa vật lý Dung thông và triết lý đạo Phật lên đỉnh cao và chung quyết của chúng.
Tiêu chuẩn thứ tư cho mẫu hình tư duy mới mà tôi trình bày đến nay là nói tất cả mọi sự đều liên hệ chằng chịt lẫn nhau. Thiên nhiên được xem là một mạng lưới động gồm toàn liên hệ móc nối với nhau, nó chứa luôn cả người quan sát, như thành phần nội tại. Mỗi thành phần riêng biệt của mạng lưới này đều chỉ là những cấu trúc tương đối ổn định. Tương tự như thế, hiện tượng thiên nhiên được mô tả bằng một loạt những khái niệm, trong đó không thành phần nào là cơ bản hơn thành phần nào.
Khuôn khổ nhận thức mới này lập tức sinh ra nhiều câu hỏi. Nếu mỗi sự đều liên hệ đến mọi sự thì làm sao ta có hy vọng hiểu được sự vật? Vì rốt cuộc mọi hiện tượng thiên nhiên đều liên hệ lẫn nhau, muốn lý giải mỗi một sự, ta cần hiểu tất cả mọi sự khác, rõ ràng là điều không thể có. Điều làm cho lý thuyết Dung thông hay lý thuyết mạng lưới trở về một lý thuyết khoa học, là biến nó thành một phương cách nhận thức gần đúng. Nếu ta chấp nhận một sự nhận thức gần đúng về thiên nhiên, ta có thể mô tả một nhóm hiện tượng nhất định và bỏ qua một số hiện tượng khác ít quan trọng. Thế nên ta có thể giải thích nhiều hiện tượng bằng một ít hiện tượng khác và hệ quả là hiểu đó là những khía cạnh khác nhau của thiên nhiên trong cách gần đúng, không nhất thiết phải hiểu mọi sự tức khắc.
Quan niệm này là then chốt của tất cả mọi khoa học và đại diện tiêu chuẩn thứ năm của tôi: sự chuyển dịch từ mô tả chính xác qua mô tả gần đúng. Mẫu hình Cartesian được đặt trên lòng tin nơi tính chính xác của nhận thức khoa học, điều này đã được Descartes phát biểu. Trong mẫu hình mới, ta nhận định rằng tất cả mọi lý thuyết và phương thức khoa học đều hạn chế và chỉ là gần đúng. Khoa học không bao giờ cung cấp sự hiểu ngộ toàn triệt và dứt khoát cả. Nhà khoa học không làm việc với sự thực ( hiểu theo nghĩa của mối liên hệ chính xác giữa sự mô tả và hiện tượng được mô tả); họ chỉ làm việc với sự mô tả thực tại hạn chế và gần đúng. Phát biểu đẹp nhất cho tiêu chuẩn này mà tôi tìm thấy là của Louis Pasteur: “Khoa học tiến lên bằng các câu trả lời cho một loạt các câu hỏi ngày càng tinh tế, chúng đạt ngày càng sâu sắc đến cốt tủy của hiện tượng thiên nhiên
Một lần nữa, thật thú vị khi so sánh thái độ của khoa học hiện đại với thái độ của đạo học và ở đây, ta thấy một trong những khác biệt nổi bật giữa khoa học và đạo học. Nói chung đạo học không quan tâm đến nhận thức gần đúng. Họ quan tâm đến nhận thức tuyệt đối để hiểu về tính toàn thể của sự hiện hữu. Biết rõ mối liên hệ then chốt của mọi khía cạnh trong vũ trụ, họ thấy rằng muốn lý giải một thứ thì rốt cuộc phải chỉ ra nó liên hệ với mọi cái khác như thế nào. Vì điều đó không thể, thường nhà đạo học chỉ quả quyết rằng không sự vật riêng lẻ nào có thể giải thích trọn vẹn. Phần đông họ không lý giải sự vật mà coi trọng sự thực chứng trực tiếp, phi suy luận về tính nhất thể của vạn sự.
Cuối cùng, tiêu chuẩn cuối của tôi, không nói lên một quan sát mà là một biện hộ. Tôi tin rằng, trước sự đe dọa của thảm họa hạt nhân và sự tàn phá môi trường, con người chỉ có thể sống còn nếu ta biết thay đổi một cách triệt để phương pháp và giá trị làm nền tảng cho khoa học và kỹ thuật của chúng ta.Với tiêu chuẩn cuối này tôi muốn biện hộ cho việc dời chuyển từ thái độ ngự trị và kiểm soát thiên nhiên, trong đó có con người, đến một thái độ hợp tác và bất bạo động.
Khoa học kỹ thuật của chúng ta dựa trên lòng tin rằng hiểu được thiên nhiên tức là thiên nhiên bị đàn ông ngự trị. Tôi dùng chữ đàn ông ở đây có mục đích, vì tôi đang nói tới một mối liên hệ rất quan trọng giữa thế giới quan cơ học trong khoa học và hệ thống giá trị gia trưởng, của khuynh hướng nam tính muốn điều khiển mọi thứ. Trong lịch sử của khoa học và triết học phương Tây, mối liên hệ này thân thiện với Francis Bacon, vào thế kỷ 17, là người đã biện hộ cho phương pháp của khoa học thực nghiệm, bằng những từ say sưa hằn học. Thiên nhiên phải bị “săn lùng khi nó biến đổi”, Bacon viết, “bị trói vào việc phục dịch” và biến thành nô lệ”. Nó phải bị “chèn ép” và mục đích của nhà khoa học là “tra cho ra những bí ẩn của nó”. Hình ảnh kinh hoàng khi thiên nhiên phải bị tra tìm cho ra bằng các phương tiện cơ giới thật hết sức giống như sự tra tấn phụ nữ của tòa án vào thế kỷ 17, điều này rất quen thuộc với Bacon, ông là Tổng công tố viên của vua James I. ở đây, ta thấy mối liên hệ then chốt và đáng sợ giữa khoa học cơ giới và giá trị gia trưởng,nó cũng có tác động to lớn lên những phát triển sau đó của khoa học và kỹ thuật.
Trong thời kỳ trước thế kỷ 17, mục đích của khoa học là sự minh triết, sự tìm hiểu qui luật thiên nhiên, và hòa điệu với nó. Đến thế kỷ 17, thái độ sinh thái này đã biến thành ngược lại. Kể từ lúc Bacon xem mục đích khoa học là để chế ngự và điều khiển thiên nhiên, ngày nay cả khoa học lẫn kỹ thuật đều chủ yếu được dùng để phục vụ những mục đích nguy hiểm, tai hại và chống sinh thái.
Sự thay đổi thế giới quan đang diễn ra sẽ chứa đựng một sự thay đổi sâu sắc về giá trị; thực tế là sự thay đổi từ tâm can – từ ý định ngự trị và điều khiển thiên nhiên đến một thái độ hợp tác và bất bạo động. Thái độ như thế có tính sinh thái sâu xa và không hề đáng ngạc nhiên, đó cũng là thái độ đặc trưng của các truyền thống tâm linh.Các nhà minh triết ngày xưa của Trung quốc đã diễn tả điều này thật tuyệt vời: “Ai thuận theo lẽ trời, kẻ đó hoà mình trong dòng chảy của Đạo”.
Phê Bình về Đạo của Vật Lý
Bây giờ tôi xin nói đến các phê bình về Đạo của vật lý đã phát sinh trong những năm qua. Một câu hỏi hay đặt ra cho tôi là các đồng nghiệp trong cộng đồng vật lý chấp nhận thế nào các luận điểm chính của tôi?
Như đã tiên đoán, trước hết phần lớn các nhà vật lý đều rất nghi ngờ và thậm chí nhiều người cảm giác bị cuốn sách đe dọa. Những kẻ có cảm giác bị cuốn sách đe dọa đã phản ứng với sự bực dọc thông thường. Họ lăng mạ và thường phê bình hằn học không giấu giếm, trong sách báo hay trong thảo luận riêng, chúng chỉ phản ánh chính sự dao động của họ.
Những lý do mà Đạo của vật lý có khi bị cảm nhận như sự đe dọa nằm nơi sự hiểu sai phổ biến về tính chất đạo học. Trong cộng đồng khoa học, đạo học thường được nghĩ là một cái gì mơ hồ, ù mờ, tối tăm và hết sức phi khoa học. Khi thấy một lý thuyết đáng yêu của mình bị so sánh với hoạt động mơ hồ tối tăm đó, nhiều nhà vật lý cảm thấy bị đe dọa rất nhiều.
Cái nhìn sai lầm này về đạo học thật sự là rất đáng tiếc, vì nếu ta đọc những kinh sách cổ điển của các truyền thống đạo học, ta sẽ thấy những chứng thực tâm linh sâu xa không bao giờ được mô tả một cách mơ hồ tối tăm, mà ngược lại, nó luôn luôn liên hệ với sự sáng sủa. Hình tượng tiêu biểu mô tả thực chứng này có thể là dứt bỏ vô minh, cắt bỏ ảo giác, tâm thức sáng tỏ, nhận thức ánh sáng, hoàn toàn tỉnh giác – tất cả những cái đó nói về sự sáng tỏ. Thực chứng tâm linh lại đi ra khỏi mức độ suy luận trí thức, nên sự sáng tỏ là một thể loại khác, nhưng nó không có gì là mơ hồ hay tối tăm cả về các thực chứng này. Thực tế là từ giác ngộ mà chúng ta dùng để mô tả thời kỳ của Cartesi mới, thời kỳ tiếp cận khoa học ở châu Âu vào thế kỷ 18, là một trong những từ cổ nhất và được sử dụng rộng nhất để mô tả thực chứng tâm linh.
May mắn thay, ý niệm sai lầm về đạo học với những điều mơ hồ và thiếu rõ ràng đó ngày nay đã thay đổi. Vì một số lớn người bắt đầu quan tâm đến tư tưởng phương Đông và thiền định không còn được xem là đáng chê cười hay nghi ngại, đạo học đã được coi trọng hơn trước nhiều, ngay cả trong cộng đồng khoa học.
Hãy cho tôi điểm lại những phê bình chung nhất về Đạo của vật lý, những điều mà tôi luôn luôn phải đương đầu trong suốt mười lăm năm qua. Trước hết, phải nói rằng tôi rất vui mừng thấy trong bài phê bình mà tôi nhận được từ các đồng nghiệp vật lý, không có trong đó tìm thấy sơ suất gì trong các trình bày về vật lý hiện đại. Có vài người không nhất trí với tôi khi nhấn mạnh vài chỗ trong sự phát triển hiện nay, nhưng tới nay không ai thấy có sai lầm về nội dung chuyên môn trong Đạo của vật lý. Thế nên phần này đã đứng vững từ mười lăm năm qua.
Có hai luận cứ mà tôi nghe nhiều hơn cả về luận điểm cơ bản của mình. Luận cứ thứ nhất nói rằng thực tế khoa học của ngày hôm nay sẽ bị sự nghiên cứu của ngày mai phá bỏ. Lời phê bình đó đặt câu hỏi, thế thì một sự việc bị tạm thời như thế, là mô hình hay lý thuyết trong vật lý hiện đại có thể so sánh được với chứng nghiệm tâm linh, nó được xem là phi thời gian và vĩnh cửu? Phải chăng những sự thật của đạo học sẽ đứng vững hay ngã đổ với những lý thuyết của vật lý hiện đại?
Luận cứ này nghe rất thuyết phục, nhưng nó xuất phát từ sự hiểu sai về tính chất của nghiên cứu khoa học. Luận cứ này đúng ở chỗ không có sự thực tuyệt đối trong khoa học. Bất cứ điều gì nhà khoa học nói ra đều được thể hiện bởi những mô tả giới hạn và gần đúng, và sự mô tả gần đúng này sẽ được tốt hơn với mỗi sự phát triển từng phần từng bước.Thế nhưng, khi lý thuyết hay mô hình được cải tiến trong mỗi bước, thì nhận thức không phải bị thay đổi một cách tùy tiện. Mỗi thuyết mới đều liên hệ với thuyết trước nó một cách rõ ràng, mặc dù trong một cuộc cách mạng khoa học, điều này có thể bất định trong một thời gian dài. Thuyết mới không loại bỏ thuyết cũ một cách tuyệt đối, nó chỉ là sự tiếp cận tốt hơn. Thí dụ cơ học lượng tử không hề cho cơ học Newton là sai trái, nó chỉ cho thấy vật lý Newton có hạn chế.
Bây giờ ta cần chú thích thêm là khi một lý thuyết trong một lĩnh vực mới được đề ra, khi khoa học cũ được cải tiến bởi thuyết mới, không phải tất cả khái niệm của cái cũ bị từ bỏ. Và tôi tin, những khái niệm nào trong lý thuyết hiện nay của chúng ta không bị đào thải và tồn tại, đó là những khái niệm gắn chặt với các truyền thống đạo học.
Tôi có thể nói biến cố này trong vật lý Newton. Một trong những phát hiện then chốt của Newton, có thể là cái then chốt nhất và cái nổi tiếng nhất, đó là sự khám phá có một thứ bậc chung trong vũ trụ. Tương truyền rằng, Newton nhận thấy trong tia chớp của trực giác, khi một trái táo rơi từ cành xuống đất, thì lực đã lôi trái táo xuống đất cũng chính là lực lôi kéo các hành tinh quay quanh mặt trời. Đó là điểm xuất phát của thuyết Newton về lực trọng trường và cái nhìn này – có một thứ bậc nhất thể trong vũ trụ – cũng không hề bị cơ học lượng tử hay thuyết tương đối phê phán. Ngược lại, nó được xác nhận và thậm chí được đề cao trong những thuyết mới.
Tương tự như thế, tôi tin rằng tính nhất thể cơ bản và tính liên hệ phức tạp của vũ trụ cũng như nguyên lý động nội tại của những hiện tượng tự nhiên – hai luận điểm lớn của vật lý hiện đại – sẽ không bị các nghiên cứu tương lai làm thương tổn. Chúng có thể được phát biểu lại, và nhiều khái niệm ngày nay sẽ bị thay thế bởi một loạt những khái niệm của tương lai. Thế nhưng sự thay thế này sẽ xảy ra một cách thứ tự và những luận điểm căn bản mà tôi dùng trong sự so sánh với các truyền thống đạo học sẽ được tăng cường, chứ không bị suy giảm, tôi tin thế. Niềm tin này đã được xác định, không phải chỉ bởi những tiến bộ trong vật lý, mà bởi những phát triển nổi bật trong sinh vật học và tâm lý học.
Loại phê bình thứ hai mà tôi được nghe nhiều lần, lý luận rằng nhà vật lý và nhà đạo học nói về hai thế giới khac nhau. Nhà vật lý làm việc với một thực tại lượng tử, nó hầu như hoàn toàn vô nghĩa với thế giới bình thường, với hiện tượng hàng ngày, trong lúc đó, đạo học làm việc chính xác với hiện tượng vĩ mô, với sự vật của thế giới thông thường, nó hầu như không có gì liên quan đến thế giới lượng tử.
Trước hết, người ta cần thừa nhận rằng thực tại lượng tử không hề xa rời hiện tượng vĩ mô. Thí dụ, một trong những hiện tượng vật lý quan trọng của thế giới thông thường, tính cứng chắc của vật chất, là một hệ quả trực tiếp của hiệu ứng lượng tử nhất định. Vì thế ta cần sửa lại lý luận này và nói rằng nhà đạo học không chủ ý làm việc với thực tại lượng tử, còn nhà vật lý thì có.
Bây giờ, nói về khái niệm của hai thế giới khác nhau, cái nhìn của tôi là chỉ có một thế giới duy nhất – thế giới đáng kính sợ và bí ẩn này, nói như Carlos Castaneda – nhưng thực tại duy nhất này có nhiều khía cạnh, nhiều chiều hướng, nhiều mức độ. Nhà vật lý và nhà đạo học làm việc với khía cạnh khác nhau của thực tại. Nhà vật lý khai phá tầng mức của vật chất, nhà đạo học khai phá tầng mức của tâm linh. Điều mà hai loại khám phá có chung là, hai tầm mức đó đều nằm ngoài cảm quan thông thường.
Thế nên ta có nhà vật lý dò tìm trong vật chất với sự giúp sức của những thiết bị tinh xảo và nhà đạo học dò tìm trong ý thức với sự giúp sức của phương pháp thiền định tinh tế. Cả hai đều đạt tới tầng mức không thông thường của nhận thức, và tại tầng mức không thông thường này thì những cấu trúc và nguyên lý của sự tổ chức xem ra hết sức tương tự. Cách thế mà cấu trúc vi mô liên hệ với nhau đối với nhà vật lý, phản ánh đùng cách thế mà các cấu trúc vĩ mô liên hệ với nhau đối với nha đạo học. Và khi ta cô lập những cấu trúc vĩ mô đó trong cách thế nhận thức thông thường thì ta nhận ra chúng là vật thể thông thường, cách ly.
Một loại phê bình khác, hay được nêu lên, nhất trí là nhà vật lý và đạo học hướng đến những tầng mức khác nhau của thực tại. Tầng mức của đạo học cao hơn, là thực tại tâm linh, nó chứa đựng thực tại thấp hơn là hiện tượng vật lý, trong lúc thực tại vật lý không chứa tâm linh.
Trước hết tôi xin nói rằng, nói một thực tại này cao hơn hay thực tại kia thấp hơn, là một tàn dư của mẫu hình tư duy cũ – lại nhắc tới hình ảnh của tòa kiến trúc, chứ không nói về mạng lưới. Tuy nhiên tôi đồng ý là nhà vật lý không nói được gì về các tầng mức khác nhau, hay chiều hướng hay thực tại khác – đời sống, tinh thần, ý thức, tâm linh, vân vân. Đối với vật lý, không có gì để nói về những tầng mức của nó, nhưng khoa học thì rất có thể.
Tôi đã đến chỗ tin rằng mẫu hình mới cho khoa học, mà tôi đã đề xuất sáu tiêu chuẩn, đã tìm thấy sự phát biểu phù hợp nhất trong lý thuyết mới về đời sống, những hệ thống tự tổ chức vận hành, chúng đã xuất hiện trong ngành Cybernetics (điều khiển học) trong những thập niên qua. Ilya Priogine, Gregory Batetson, Humberto Maturana, và Francisco Varela là một số những người đầu tiên đóng góp cho thuyết này. Đó là một thuyết có thể áp dụng cho mỗi quá trình phát triển hữu cơ cá thể, hệ thống xã hội, và hệ thống sinh thái; và chúng hứa hẹn đưa đến một quan niệm thống nhất về đời sống, tinh thần, vật chất và tiến hóa. Cách tiếp cận này xác nhận sự tương đồng giữa vật lý và đạo học và cộng thêm nhiều cái khác nằm ngoài phạm vi vật lý: quan niệm về ý chí tự do, quan niệm về sống chết, tự tính của ý thức, vân vân. Đó là một sự hòa điệu sâu sắc giữa khái niệm, chúng được phát biểu trong một hệ thống tự tổ chức vận hành và các khái niệm liên hệ trong các truyền thống đạo học.
SỰ PHÁT TRIỂN HIỆN NAY VÀ KHẢ NĂNG CỦA TƯƠNG LAI
Điều vừa đề cập dẫn tôi nói về sự phát triển hiện nay và khả năng trong tương lai về sự phát biểu của những mẫu hình của khoa học mới. Từ khi viết Đạo của vật lý, tôi đã có những thay đổi quan trọng về nhận thức khi nói về vai trò của vật lý trong sự phát triển này. Lúc bắt đầu nghiên cứu sự chuyển dịch của mẫu hình trong nhiều loại hình khoa học, tôi nhận ra tất cả chúng đều xuất phát từ thế giới quan cơ học của vật lý Newton, và tôi thấy vật lý mới là mô hình lý tưởng cho những khái niệm và cách tiếp cận mới trong loại hình khác. Trong thời gian qua, tôi đã nhận định rằng một quan điểm như thế có nghĩa là tầng mức của vật lý là cơ bản hơn mọi thứ khác. Ngày nay tôi xem nền vật lý mới, đặc biệt là thuyết Dung thông (Bootstrap) chỉ là trường hợp đặc biệt của một phương cách tiếp cận, khi ta làm việc với hệ thống.
Vì thế, sự hoàn chỉnh các luận điểm mà tôi nêu ra trong Đạo của vật lý không phải nặng trong các phát hiện tiếp theo về sự tương đồng giữa vật lý và đạo học, mà chính là sự mở rộng trong các ngành khoa học khác. Thật ra điều này đã được thực hiện, và tôi xin lướt qua vài tác phẩm đó. Về mối tương đồng giữa đạo học và khoa học tư duy, tác giả tốt nhất mà tôi biết là Francisco Varela, một trong những người đi đầu của thuyết tự tổ chức vận hành. Verala với Evan Thompson, đang viết một cuốn sách về sự tham dự của lý thuyết tâm thức Phật giáo trong nhận thức khoa học. Trong thời gian qua, cuốn sách của ông The Tree of Knowledge (cây nhận thức), đồng tác giả với Humberto Maturana, là suối nguồn quan trọng của ý niệm này.
Trong tâm lý học, nhiều tác phẩm đã được hoàn thành để khai phá chiều kích tâm linh của tâm lý học và phép chữa bệnh tâm lý. Có một ngành đặc biệt, tâm lý chung của con người, chỉ cống hiến cho mục đích này. Stanilav Grof, Ken Wilber, Frances Vaughan và nhiều người khác đã xuất bản sách vở về đề tài này, nhiều người trong đó bắt đầu với Đạo của vật lý, và trở về lại với Carl Gustav Jung.
Trong ngành khoa học xã hội, phương hướng tâm linh xuất hiện với tác phẩm của E.F. Schumacher, Buddhist Economics, lần đầu xuất bản vào cuối những năm sáu mươi và từ đó được tìm hiểu trong nhiều nhóm khác nhau và trong các hệ thống mới, cả lý thuyết lẫn thực hành. Liên hệ chặt chẽ với phong trào này là một dạng chính sách sinh thái mới, được gọi là chính sách Green (xanh), đó là nơi mà tôi xem là biểu hiện chính trị của sự biến dịch của mẫu hình văn hóa mới. Khía cạnh tâm linh của các phong trào chính trị này đã được thảo luận bởi bà C-harlene Spretnak trong tác phẩm The Spiritual Dimension of Green Politics (Chiều kích tâm linh của Chính sách Xanh).
Cuối cùng, tôi xin thêm vài chữ để nói dến quan niệm của tôi về đạo học phương Đông, nó cũng có vài thay đổi trong mười lăm năm qua. Trước hết, đối với tôi lúc nào cũng rõ, và tôi đã nói trong Đạo của vật lý, rằng sự tương đồng theo cách tôi thấy giữa vật lý và đạo học phương Đông cũng có thể rút ra từ các truyền thống đạo học phương Tây. Cuốn sách tới đây của tôi, Belonging to the Universe (Thuộc về vũ trụ), đồng tác giả với Brother David Steindl-Rast, thảo luận về một vài sự tương đồng đó. Hơn nữa, tôi không còn nghĩ có thể đưa truyền thống đạo học phương Đông vào phương Tây mà không thay đổi chúng trong nhiều điểm quan trọng để thích nghi với văn hóa của chúng ta. Niềm tin này được củng cố bằng sự gặp gỡ với nhiều vị đạo sư tâm linh phương Đông, họ không hiểu được vài khía cạnh chủ yếu của mẫu hình mới đang phát sinh ở phương Tây.
Mặt khác, tôi cũng tin là truyền thống tâm linh của chúng ta cũng sẽ phải chịu nhiều thay đổi quyết liệt để hoà điệu với giá trị của mẫu hình mới. Tâm linh với hình ảnh mới về thực tại mà tôi trình bày ở đây có lẽ phải là một tinh thần sinh thái, hướng đến địa cầu, từ bỏ tinh thần gia trưởng. Loại tâm linh mới này đã được phát triển trong nhiều nhóm và phong trào, bên trong và bên ngoài Nhà thờ. Một thí dụ là nhóm tâm linh sáng tạo được hình thành bởi Matthew Fox và đồng nghiệp của ông tại Holy Names College, Oakland, California.
Đó là vài sự phát triển đang xảy ra trong tiến trình hình hành mẫu hình mới. Sự đóng góp của riêng tôi trong mười lăm năm qua đã giúp được sự ra đời của những mẫu hình mới và hệ quả xã hội của chúng trong The Turning Point (Bước ngoặt) và tinh lọc thêm sự tổng hợp đó bằng cách hợp tác với một nhóm đồng nghiệp xuất sắc mà cùng với họ tôi đã tìm thấy và phát triển một trung tâm tư tưởng sinh thái, Elmwood Institute (PO Box 5765, Berkeley, CA 94705 USA).
Qua những năm tháng đó, tôi đã gặp nhiều con người đặc biệt, với họ tôi có những thành tựu lớn. Nhiều tình bạn lâu năm cũng đã xuất phát từ những lần gặp gỡ đó. Lúc tôi quyết định viết Đạo của vật lý cách đây hơn hai mươi năm, tôi đã có một bước đi đầy rủi ro nghề nghiệp, với nhiều hoang mang lo lắng cũng như e ngại về mặt kinh tế và tôi hoàn toàn cô đơn khi trải qua giai đoạn đó. Nhiều bè bạn và đồng nghiệp của tôi cũng phải chịu như thế khi họ đi những bước tương tự trong lĩnh vực của họ. Ngày nay tất cả chúng tôi thấy mạnh mẽ hơn nhiều. Chúng tôi được đưa vào trong một hệ thống mà tôi gọi là văn hóa tiên tiến – một phong trào đa dạng tiêu biểu cho nhiều mặt của một cách nhìn mới về thực tại, từng bước kết tinh lại để thành một lực lượng mạnh mẽ cho sự chuyển hóa xã hội.
Triết học tôn giáo phương Đông quan tâm đến những nhận thức đạo học vượt thời gian, chúng nằm ngoài suy luận và không thể diễn đạt tới nơi bằng chữ nghĩa. Mối liên hệ của những nhận thức này với vật lý hiện đại chỉ là một trong nhiều khía cạnh và, cũng như cái khác, không thể trình bày tới cùng, mà phải chứng nghiệm bằng con đường trực giác. Thế nhưng, điều mà tôi muốn đạt tới, trong chừng mực nhất định, không phải là một sự trình bày cứng nhắc, mà tạo cho độc giả cơ hội tự nếm trải một kinh nghiệm, đối với tôi nó đã thành suối nguồn của niềm vui và cảm khái liên tục; đó là những lý thuyết và mô hình chính yếu của vật lý hiện đại dẫn tới một thế giới quan, chúng tương thích từ trong bản chất và hòa hợp toàn hảo với quan điểm của đạo học phương Đông.
Ai đã thực chứng mối hòa hợp này, thì sự quan trọng của tính song hành nổi bật giữa thế giới quan của nhà vật lý và nhà đạo học, đối với người đó không còn đáng nghi ngờ gì. Thế thì câu hỏi thú vị cho bây giờ không phải là liệu chúng song hành hay không, mà tại sao, và hơn nữa, chúng gợi cho ta điều gì.
Nhằm hiểu ngộ cái bí ẩn của đời sống, mọi người có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong những cách đó, có cách thế của khoa học và đạo học, nhưng còn nhiều cách khác nữa; cách của nhà thơ, của trẻ con, của chú hề, của nhà phù thủy… nếu ta muốn kể thêm vài cách. Những cách này dẫn đến những mô tả khác nhau về thế giới, với ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ, chúng nhấn mạnh đến nhiều khía cạnh khác nhau. Tất cả đều có giá trị và hữu ích trong phạm vi mà chúng xuất hiện. Tuy nhiên, tất cả những cách đó, chỉ là sự mô tả hay biểu tượng của thực tại và vì thế có giới hạn. Không cách nào có thể cho một hình ảnh toàn triệt về thế giới.
Quan điểm về thế giới cơ học của vật lý cổ điển là hữu ích cho sự mô tả các loại hiện tượng vật lý mà chúng ta gặp trong đời sống hàng ngày, và vì thế mà phù hợp để giải quyết những vấn đề của môi trường sống hàng ngày. Nó cũng chứng minh sự thành công xuất sắc, với tính cách là cơ sở của kỹ thuật. Tuy thế nó không phù hợp khi mô tả các hiện tượng vật lý trong lĩnh vực vi mô. Ngược lại với quan điểm cơ giới về thế giới là cái nhìn của nhà đạo học, đó là cái nhìn hữu cơ, vì nó nhìn mọi hiện tượng trong vũ trụ là những thành phần tổng hòa của một cái toàn thể hòa hợp không thể chia cắt. Thế giới quan này xuất phát trong truyền thống đạo học, từ những dạng thiên định của ý thức. Khi mô tả thế giới, nhà đạo học dùng những khái niệm xuất phát từ những thực chứng phi thường đó và, nói chung là không phù hợp cho một sự mô tả khoa học về hiện tượng vĩ mô. Thế giới quan sinh cơ cũng không thuận lợi để chế tạo máy móc, cũng chẳng giải quyết được những vấn đề kỹ thuật của một thế giới nhân mãn.
Trong đời sống hàng ngày, cả hai cách nhìn cơ học và hữu cơ của vũ trụ đều có giá trị và đều hữu ích; một cái thì cho khoa học và kỹ thuật, cái kia thì cho sự thăng bằng và thỏa ứng đời sống tinh thần. Thế nhưng, bên kia môi trường hàng ngày của chúng ta, quan niệm cơ học mất giá trị và cần được thay thế bởi quan điểm hữu cơ, mà chúng rất giống với quan điểm sử dụng bởi nhà đạo học. Đây chính là kinh nghiệm cốt tủy của vật lý hiện đại, nó là đề tài của những thảo luận này của chúng ta. Vật lý của thế kỷ 20 đã chỉ ra rằng, phương thức của thế giới quan hữu cơ, mặc dù nó có giá trị đối với khoa học và kỹ thuật ở mức độ con người, đã trở nên hết sức hữu ích trong phạm vi nguyên tử và hạ nguyên tử. Quan điểm hữu cơ vì thế có lẽ là cơ bản hơn cái nhìn cơ học. Vật lý cổ điển, vốn đặt trên tính cơ giới, có thể suy luận từ thuyết lượng tử mà ra, thuyết lượng tử bao trùm thuyết cổ điển, nhưng không ngược lại. Điều này cho ta câu trả lời đầu tiên, tại sao có thể tin được thế giới quan của vật lý hiện đại và của đạo học phương Đông tương đồng với nhau. Cả hai xuất phát từ chỗ khi tìm hiểu tự tính cốt tủy của sự vật – khi đi vào lĩnh vực sâu xa của vật chất trong vật lý; khi đi vào lĩnh vực sâu xa của ý thức trong đạo học – thì ta khám phá một thực tại nằm sau bộ mặt cơ giới nông cạn của đời sống hàng ngày.
Sự tương đồng giữa cái nhìn của nhà vật lý và đạo học trở nên dễ hiểu hơn khi ta nhớ lại những tương đồng khác đã có, mặc dù hai bên có hai cách khác nhau để tiếp cận thực tại. Trước hết, phương pháp của cả hai đều là thực nghiệm. Nhà vật lý suy luận ra nhận thức của họ thông qua thí nghiệm; nhà đạo học suy ra nhận thức của họ từ chứng thực thiền quán. Cả hai đều là sự quan sát, và trong cả hai bên, quan sát được xem là nguồn suối duy nhất của nhận thức. Tất nhiên là đối tượng quan sát rất khác nhau cho hai trường hợp. Nhà đạo học nhìn về phía trong và khám phá ra ý thức của mình trong nhiều tầng mức khác nhau, kể cả tầng mức thấy thân thể chính là hiện thân của tâm thức. Thực chứng về thân người này, thực ra là được coi trọng trong nhiều truyền thống phương Đông và thường được xem là chìa khóa mở cánh cửa chứng nghiệm huyền bí về thế giới. Khi chúng ta mạnh khỏe, ta không thấy có phần thân thể nào tách rời thân ta mà ý thức chúng là một cái toàn thể và ý thức này sinh ra một cảm giác dễ chịu và an lạc. Tương tự thế, nhà đạo học ý thức về một cái toàn thể của toàn bộ vũ trụ, nó được chứng thực như thân thể được mở rộng. Sau đây là những dòng của Lama Govinda:
Đối với người giác ngộ… ý thức của họ bao trùm vũ trụ, vũ trụ trở thành “thân” của người đó, còn ứng thân (Thân) của người đó thành một biểu hiện của tâm thức vũ trụ, quán sát nội tại ( Ý) của người đó trở thành thực tại cao tột và ngôn ngữ (Khẩu) của người đó trở thành sự thực vĩnh hằng và có sức mạnh thần diệu.
Ngược với đạo học, nhà vật lý bắt đầu tìm tòi về tự tính sự vật bằng cách nghiên cứu thế giới vật chất. Xuyên suốt vào các tầng sâu kín của sự vật, anh ta đã ý thức tính nhất thể cốt tủy của sự vật và biến cố. Hơn thế nữa, anh ta đã biết rằng chính bản thân và ý thức của mình cũng là phần bất khả phân của cái toàn thể đó. Thế nên nhà đạo học và nhà vật lý đã tới một kết luận chung; người thì bắt đầu bằng nội tâm, kẻ bắt đầu từ ngoại giới. Sự hòa điệu giữa những cái nhìn của họ xác định minh triết cổ xưa của Ấn Độ rằng Brahman, thực tại ngoại giới cuối cùng, là đồng thể với Atman, thực tại nội tâm.
Một sự tương đồng nữa giữa phương pháp của nhà vật lý và nhà đạo học là những quan sát của họ nằm trong những lĩnh vực mà giác quan bình thường không với tới được. Trong vật lý hiện đại, đó là lĩnh vực của nguyên tử và hạ nguyên tử; trong đạo học, đó là tình trạng phi thường của ý thức; trong đó thế giới giác quan được chuyển hóa. Nhà đạo học hay nói về những thực chứng ở một mức độ cao, nơi đó ấn tượng của các trung tâm ý thức khác nhau hòa hợp vào một cái chung. Một tình trạng tương tự cũng có trong vật lý hiện đại, nơi mà không gian – thời gian bốn chiều được sử dụng, nhờ đó mà thống nhất được các khái niệm và quan sát thuộc những chủng loại khác nhau của một thế giới ba chiều thông thường. Trong cả hai trường hợp, những kinh nghiệm nhiều chiều đã chuyển hóa thế giới cảm quan và vì thế mà hầu như không diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được.
Ta thấy rằng phương pháp của nhà vật lý hiện đại và của nhà đạo học phương Đông, mới đầu thì thấy hoàn toàn không liên quan gì đến nhau, nhưng thực tế lại rất trùng hợp.
Bởi vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng có những tương đồng to lớn trong mọi mô tả thế giới. Một khi những tương đồng đó giữa khoa học phương Tây và đạo học phương Đông đã được thừa nhận, một loạt câu hỏi sẽ được đặt ra về hệ quả của chúng. Phải chăng khoa học hiện đại, với tất cả những máy móc tinh xảo của nó, chỉ đang phát hiện lại những minh triết cổ xưa, đã được các thánh nhân phương Đông biết đến từ cả ngàn năm trước? Vì thế mà phải chăng nhà vật lý hãy từ bỏ phương pháp khoa học và bắt đầu thiền định? Hay là có một sự ảnh hưởng qua lại giữa khoa học và đạo học, thậm chí một sự tổng hợp?
Tôi nghĩ rằng phải trả lời những câu hỏi đó bằng cách nói “không”. Tôi thấy khoa học và đạo học là hai biểu hiện bổ túc lẫn nhau của tư duy con người, của khả năng suy luận và khả năng trực giác. Nhà vật lý hiện đại chứng nghiệm thế giới thông qua sự chuyên môn tột cùng của tư duy trừu tượng; nhà đạo học thông qua sự chuyên môn tột cùng của trực giác. Hai cách tiếp cận này hoàn toàn khác nhau và chứa đựng nhiều hơn hẳn một cái nhìn về thế giới vật lý thuần túy. Thế nhưng, chúng bổ túc lẫn nhau, như chúng ta thường nói trong vật lý. Không cái nào chứa đựng cái kia, cũng không cái nào suy ra được cái kia, nhưng cả hai chúng đều cần thiết, chúng bổ túc lẫn nhau để có thể hiểu thế giới một cách hoàn toàn. Hãy nhắc lại một tục ngữ Trung Quốc, nhà đạo học biết gốc rễ của Đạo nhưng không biết cành ngọn; nhà khoa học hiểu cành ngọn nhưng không biết gốc rễ. Khoa học không cần biết tới đạo học, đạo học không cần biết tới khoa học, nhưng con người cần cả hai. Những kinh nghiệm đạo học là cần thiết để hiểu tự tính sâu kín của mọi vật và khoa học cần cho đời sống hiện đại. Vì thế điều ta cần, không phải là một sự tổng hợp mà là một sự tương tác động giữa trực giác đạo học và phân tích khoa học.
Đến nay, điều này vẫn chưa thực hiện được trong xã hội chúng ta. Hiện nay thái độ của ta là quá dương – nói theo cách nói Trung Quốc – quá nặng suy luận, quá nam tính và hiếu thắng. Bản thân các nhà khoa học là những thí dụ tiêu biểu. Mặc dù các lý thuyết của họ đang dẫn đến thế giới quan tương tự như của đạo học, điều nổi bật là, thực tế này không ảnh hưởng bao nhiêu lên thái độ sống của phần lớn nhà khoa học. Trong đạo học, nhận thức không tách rời một lối sống nhất định, đó là sự biểu hiện sống động của nhận thức. Đạt tới những tri thức huyền bí có nghĩa là phải qua một sự chuyển hóa. Còn nhận thức khoa học, mặt khác, thường vẫn giữ tính chất trừu tượng và lý thuyết. Thế nên phần lớn các nhà khoa học ngày nay xem ra không hiểu ngộ được những gì do lý thuyết của chính họ đem lại về triết học, văn hóa và tâm linh. Nhiều người trong họ vẫn tiếp tục ủng hộ một xã hội xây dựng trên một thế giới quan cơ học, phiến diện, mà không thấy rằng khoa học đã bỏ qua cái nhìn đó, hướng về một cái nhất thể của vũ trụ, nó không những chỉ bao hàm đời sống chung quanh ta mà còn những con người khác nữa. Tôi nghĩ rằng thế giới quan của vật lý hiện đại là không tương thích với xã hội hiện nay của chúng ta, xã hội đó không phản ánh gì mối tương quan hòa hợp mà ta quan sát được trong thiên nhiên. Nhằm đạt được một tình trạng thăng bằng động như thế, ta cần một cấu trúc xã hội và kinh tế hoàn toàn khác: một cuộc cách mạng văn hóa trong cảm quan đích thực về thế giới. Cuối cùng, toàn bộ nền văn minh của chúng ta có sống được hay không, có lẽ phụ thuộc vào điều là liệu chúng ta có đủ khả năng tiếp nhận thái độ âm của đạo học phương Đông; để chứng thực tính toàn thể của thiên nhiên va cách sống trong đó một cách hòa hợp.
Điểm Lại Nền Vật Lý Mới
Kể từ bản in lần đầu của Đạo của vật lý, có nhiều tiến bộ đáng kể trong các lĩnh vực của vật lý hạ nguyên tử xảy ra. Khi tôi viết những dòng cho lời nói đầu của bản in mới này thì những phát triển mới không có điểm nào bác bỏ những tương đồng với tư tưởng phương Đông, mà ngược lại, chỉ tăng cường thêm. Trong lời cuối này, tôi mong được thảo luận thêm về kết quả của những nghiên cứu mới mẻ trong vật lý nguyên tử và hạ nguyên tử cho đến mùa hè năm 1982.
Một trong những tương đồng mạnh nhất với đạo học phương Đông là sự thừa nhận rằng những đơn vị cấu thành vật chất và hiện tượng cơ bản do chúng sinh ra, tất cả đều tác động qua lại với nhau; rằng chúng không thể được hiểu như những đơn vị độc lập mà là phần không tách rời được của một cái toàn thể. Khái niệm của tương tác lượng tử mà tôi đã trình bày chi tiết trong chương 10 được Bohr và Heisenberg nhấn mạnh suốt trong lịch sử của thuyết lượng tử. Thế nhưng, nó vừa thêm được sự quan tâm mới mẻ trong hai thập niên vừa qua, khi nhà vật lý tiến đến chỗ thấy rằng vũ trụ quả thật được liên hệ lẫn nhau trong những cách tinh tế hơn người ta nghĩ nhiều. Phương thức mới của mối liên hệ lẫn nhau vừa được xác định không những đã tăng cường thêm cho sự song hành giữa cách nhìn vật lý và đạo học, nó còn sinh ra những khả năng hết sức lý thú để kết nối vật lý hạ nguyên tử với tâm lý học của Jung và, có thể thậm chí với siêu tâm lý học; và nó cho thêm ánh sáng mới về vai trò cơ bản của tính chất xác suất trong vật lý lượng tử.
Trong vật lý cổ điển, tính xác suất chỉ được dùng khi các chi tiết tham dự vào một biến cố không rõ ràng. Thí dụ khi ta đổ hạt súc sắc, trên nguyên tắc ta có thể tiên đoán mặt nào sẽ ra nếu ta biết hết tất cả lý tính và hóa tính đó: thành phần cấu tạo của hạt, bề mặt mà hạt rơi xuống, v.v… những chi tiết này được gọi là biến số tại chỗ hay biến số địa phương vì chúng nằm trong lòng vật thể đó. Trong vật lý hạ nguyên tử, biến số địa phương của những mối liên hệ giữa các biến cố nằm trong không gian là những tín hiệu – những tín hiệu đó là hạt hay nhóm các hạt – chúng tuân thủ định luật thông thường trong không gian.Thí dụ không có tín hiệu nào có thể đi nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Nhưng trong thời gian qua, ngoài những mối liên hệ địa phương này, người ta phát hiện ra những mối liên hệ khác, liên hệ liên thông, đó là những liên hệ xảy ra tức thời, hiện nay không thể tiên đoán trước bằng phép toán học chính xác.
Những biến cố liên thông này được nhiều nhà vật lý xem là rất cốt tủy trong vật lý lượng tử. Trong thuyết lượng tử, các biến cố riêng lẻ luôn luôn không có một nguyên nhân rõ ràng.Thí dụ khi một electron nhảy từ một quĩ đạo này qua một quĩ đạo khác hay sự tự hủy của một hạt hạ nguyên tử, chúng có thể xảy ra thình lình, không cần có một biến cố tạo ra nó. Không bao giờ chúng ta có thể tiên đoán một hiện tượng như thế sẽ xảy ra vào lúc nào và xảy ra như thế nào; chúng ta chỉ nói trước về xác suất của chúng. Điều đó không có nghĩa là các hiện tượng nguyên tử xảy ra hoàn toàn tùy tiện; mà chỉ nói lên rằng chúng không bị những tác nhân địa phương tác kích. Hoạt động của mỗi hạt được xác định bởi các biến số liên thông và vì chúng ta không biết rõ các mối liên hệ này nên đành phải thay thế nội dung cổ điển chật hẹp của nhân – quả bằng khái niệm rộng hơn của tính nhân quả thống kê. Các định luật của vật lý nguyên tử là định luật thống kê, theo đó mà xác suất của hiện tượng nguyên tử được xác định bởi tính động của toàn hệ thống.Trong vật lý cổ điển, tính chất và hoạt động của cái riêng lẻ quyết định tính chất và hoạt động của cái toàn thể, tình hình đó là ngược lại trong vật lý lượng tử: chính cái toàn thể xác định hoạt động của cái riêng lẻ.
Vì thế, tính xác suất được sử dụng cho cả vật lý cổ điển và lượng tử có lẽ vì một vấn đề chung: trong cả hai, đó chính là những ẩn số ta không biết tới, và sự không rõ này ngăn cản ta có một tiên đoán chính xác. Thế nhưng, ở đây có một sự khác biệt quyết định. Trong lúc những ẩn số trong vật lý cổ điển chỉ là cơ chế địa phương, thì trong lượng tử, chúng là liên thông; chúng có mối liên hệ tức thời trong toàn bộ vũ trụ. Trong đời sống hàng ngày, trong thế giới vĩ mô, các mối quan hệ liên thông tương đối không quan trọng, nên ta mới có thể nói về các vật thể riêng lẻ và phát biểu các định luật mô tả hoạt động của chúng bằng các trị số chắc chắn. Nhưng khi nghiên cứu ở kích thước nhỏ, tính chắc chắn được thay bằng tính xác suất và càng lúc càng khó tách vật nào trong vũ trụ ra khỏi cái toàn thể.
Sự hiện hữu của những mối quan hệ liên thông và vai trò quyết định của tính xác suất được suy ra từ đó là điều mà Einstein không bao giờ chịu chấp nhận. Đó chính là đề tài của cuộc tranh luận lịch sử của ông với Bohr trong những năm 1920, trong đó Einstein phát biểu sự bác bỏ của mình chống lại cách diễn dịch thuyết lượng tử của Bohr bằng ẩn dụ nổi tiếng: “Chúa không chơi trò súc sắc”. Cuối cùng, Einstein phải thừa nhận thuyết lượng tử, diễn giải bởi Bohr và Heisenberg, đã tạo ra một hệ thống tư tưởng nhất quán, nhưng ông vẫn tin nơi quan điểm quyết định luận, với các ẩn số địa phương trong tương lai sẽ được hiện ra.
Cái cốt tủy về sự bất đồng giữa Einstein với Bohr xuất phát từ lòng tin chắc chắn của Einstein nơi một thực tại bên ngoài, thực tại đó gồm có những yếu tố tách rời trong không gian và độc lập. Nhằm chứng minh rằng cách diễn giải của Bohr về thuyết lượng tử là không nhất quán, Einstein nghĩ ra một mô hình tư tưởng được biết đến cái tên Einstein-Podisky-Rosen (EPR). Ba thập niên sau, John Bell đề xuất một lý thuyết, dựa trên mô ình EPR, mô hình này chứng minh sự hiện hữu của ẩn số địa phương là không tương thích với những tiên đoán mang tính thống kê của thuyết lượng tử. Thuyết của Bell đã bác bỏ luận cứ của Einstein bằng cách cho thấy rằng hình dung một thực tại gồm các phần tử tách rời, nối với nhau bằng liên hệ địa phương là không thể tương thích với thuyết lượng tử.
Trong những năm qua, mô hình EPR vẫn liên tục được thảo luận và phân tích bởi các nhà vật lý quan tâm đến lý giải thuyết lượng tử, vì nó rất thích hợp để chỉ ra sự khác biệt giữa quan niệm cổ điển và quan niệm lượng tử. Đối với mục đích của ta, có lẽ chỉ cần mô tả một cách đơn giản mô hình này, nó gồm có hai electron tự quay tròn, dựa trên cách trình bày của David Bohm. Nhằm nắm bắt cốt tủy vấn đề, ta cần hiểu vài tính chất của electronspin. Hình ảnh của một quả bóng tennis quay quanh trục hoàn toàn không phù hợp để mô tả một hạt hạ nguyên tử có spin. Trong một nghĩa nhất định, spin là sự quay quanh trục của hạt, nhưng như nhiều lần đã xảy ra trong vật lý hạ nguyên tử, khái niệm cổ điển này bị hạn chế. Trong trường hợp của electron thì spin của hạt được giới hạn bởi hai trị số: trị số của spin không thay đổi nhưng electron có thể quay theo chiều này hoặc chiều kia, theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiều kim đồng hồ, qui vào một chiều đã cho sẵn. Nhà vật lý thường gọi hai trị số này là lên và xuống.
Tính chất quyết định của electron có spin, điều mà không nên hiểu theo nghĩa cổ điển, là trục quay của nó luôn luôn không xác định được một cách chắc chắn. Cũng như electron có khuynh hướng hiện hữu tại một chỗ nhất định, chúng cũng có khuynh hướng quay quanh một trục nào đó. Khi đo một trục quay bất kỳ nào đó, người ta tìm thấy electron đang quay theo chiều này hay chiều kia của trục. Nói cách khác, tiến trình đo lường đã cho hạt một trục quay nhất định, còn trước khi đo lường thì ta không thể nói nó có quay quanh một trục nhất định hay không; ta chỉ có thể nói nó có khả năng quay.
Với sự hiểu biết này về spin của electron, bây giờ ta hãy xét mô hình thí nghiệm EPR và thuyết của Bell. Mô hình thí nghiệm này xét hai hạt electron đang quay trái chiều với nhau, thế nên tổng số spin của chúng bằng không.
Có nhiều phương pháp thí nghiệm được sử dụng để đưa hai electron đó vào trong một trạng thái, trong đó chiều quay của mỗi spin không được biết đích xác nhưng tổng số spin của hai electron đó chắc chắn bằng không. Bây giờ ta giả định rằng hai electron đó bị cách ly ra xa bởi một tiến trình, triến trình đó không ảnh hưởng lên spin của chúng. Khi chúng bị tách ra mà chúng vẫn bị quay ngược chiều, tổng số spin của chúng bằng không, nhưng khi chúng đã thật xa nhau, hãy đo mỗi một spin của chúng. Một khía cạnh quan trọng của thí nghiệm này là khoảng cách giữa hai hạt này phải xa bất kỳ; một hạt có thể ở New york, hạt kia ở Paris, hay một hạt ở trên trái đất, hạt kia ở mặt trăng.
Hãy giả định rằng spin của hạt 1 được đo theo một trục đứng và được thấy là lên. Vì tổng số spin của hai hạt phải bằng không, số đo này cho ta biết spin của hạt hai phải là xuống. Thế nên khi đo spin của hạt 1, ta sẽ biết một cách gián tiếp spin của hạt 2 mà không đụng gì đến hạt này cả. Khía cạnh nghịch lý của thí nghiệm EPR xuất hiện từ thực tế là quan sát viên được tự do lựa chọn trục đo. Thuyết lượng tử cho ta biết rằng spin của hai electron này xung quanh mọi trục đều quay ngược chiều cả, nhưng chúng chỉ tồn tại như là khuynh hướng, hay khả năng, trước khi tiến trình đo lường được thực hiện. Bây giờ khi quan sát viên đã lựa chọn một trục nhất định và tiến hành đo, thì hành động này đã cho hai hạt một trục quay cụ thể. Điều quyết định là, như thế ta có thể lựa một trục quay ở thời điểm cuối, khi hai hạt đã xa nhau hẳn rồi. Ngay tức thời khi ta đo hạt 1, thì hạt 2 lúc đó đã cách xa vài ngàn dặm, thế mà sẽ nhận được một spin quanh trục ta chọn. Làm sao hạt 2 biết ta chọn trục nào được? Vì là tức thời, đâu có thời gian nào để nhận được thông tin từ một tín hiệu qui ước.
Đây là điểm chốt của thí nghiệm EPR và cũng là chỗ bất đồng của Einstein với Bohr. Theo Einstein thì, vì không có tín hiệu nào có thể đi nhanh hơn ánh sáng, nên không thể có một phép đo nào lên một electron lại tức thời xác định chiều quay của hạt kia, hạt cách xa vài ngàn dặm. Theo Bohr thì hệ thống hai hạt này là một cái toàn thể không chia cắt được, dù cho hai hạt bị cách ly ra xa nhau một khoảng cách lớn; hệ thống này cũng không thể được phân tích như hai phần tử độc lập. Ngay cả khi hai electron tách ra xa trong không gian, chúng vẫn nối với nhau bằng liên hệ tức thì, liên thông. Môi liên hệ này không phải là tín hiệu trong nghĩa của Einstein; chúngchuyển hóa khái niệm qui ước của ta về việc trao truyền thông tin. Thuyết của Bell hỗ trợ quan niệm của Bohr và chứng minh một cách rõ ràng rằng, cách nhìn của Einstein về thực tại vật lý gồm những yếu tố độc lập, nằm rải rác trong không gian, cách nhìn đó không tương thích với định luật của thuyết lượng tử. nói cách khác, thuyết của Bell chỉ rõ rằng vũ trụ là liên hệ cơ bản với nhau, phụ thuộc lẫn nhau và không tách rời được. Cũng như vị thánh nhân Phật giáo Long Thụ nói cách đây hàng trăm năm:
Tính chất và sự hiện hữu của sự vật xuất phát từ những mối tương quan mà ra, tự nó không có gì cả.
Hiện nay, các nghiên cứu trong vật lý nhằm mục đích thống nhất hai thuyết cơ bản, thuyết lượng tử và thuyết tương đối, trong một thuyết hoàn chỉnh cho các hạt hạ nguyên tử.
Chúng ta chưa đủ khả năng để phát biểu một thuyết hoàn chỉnh như thế, nhưng có nhiều thuyết và mô hình toàn phần, chúng mô tả rất tốt một số khía cạnh của hiện tượng hạ nguyên tử. Hiện nay ta có loại thuyết lượng tử – tương đối khác nhau cho vật lý hạt, chúng thành công trong những lĩnh vực khác nhau. Lý thuyết đầu là một nhóm lý thuyết trường (xem chương 14), nó được áp dụng cho tương tác điện từ và tương tác yếu; lý thuyết thứ hai là thuyết mang tên ma trận S (xem chương 17), nó được áp dụng thành công để mô tả tương tác mạnh. Một vấn đề lớn hiện nay chưa giải quyết được là sự thống nhất giữa thuyết lượng tử và thuyết tương đối tổng quát để hoàn thành một thuyết lượng tử trọng trường. Mặc dù gần đây sự phát triển của thuyết siêu trọng trường có thể được xem là một bước về hướng giải quyết vấn đề này, tới nay chưa tìm ra được một thuyết nào khả dĩ tốt hơn.
Các thuyết lượng tử, như trình bày chi tiết trong chương 14, đặt trên cơ sở của trường lượng tử, một đơn vị cơ bản, nó có thể hiện hữu ở trạng thái liên tục là trường, trong trạng thái phi liên tục là hạt, nhiều hạt khác nhau được xem như liên hệ với những trường khác nhau. Những thuyết này đã thay thế khái niệm xem hạt là vật thể cơ bản bằng nội dung một trường lượng tử tinh tế hơn nhiều. Tuy thế, các thuyết này vẫn xem có những đơn vị cơ bản và thế nên trong một nghĩa nhất định, vẫn là thuyết bán cổ điển, chúng không chỉ rõ được toàn thể tự tính lượng tử – tương đối của vật chất hạ nguyên tử.
Thuyết điện động lượng tử, thuyết đầu tiên của trường lượng tử, đạt thành quả là nhờ tương tác điện từ vốn rất yếu mà nhờ thế có thể giữ tính chất của một sự phân biệt cổ điển giữa vật chất và lực tương tác. Điều này cũng đúng với lý thuyết trường của tương tác yếu đã được nhận thấy rõ hơn hẳn trong thời gian qua, nhờ sự phát triển một loại thuyết mới về trường, được gọi là lý thuyết Gauge, nó có thể thống nhất hai tương tác này làm một. Trong thuyết thống nhất đó – được gọi là thuyết Weinberg – Salam để chỉ hai kiến trúc sư chính là Steven Weinberg và Abdus Salam – hai loại tương tác vẫn được phân biệt, nhưng về toán học chúng được nối với nhau và được gọi chung là tương tác điện từ yếu.
Thuyết Gauge cũng được mở rộng cho tương tác mạnh với sự phát triển một lý thuyết trường gọi là sắc động lượng tử (QCD), nhiều nhà vật lý đang cố gắng thiết lập một sự đại thống nhất giữa QCD và thuyết Weinberg – Salam. Tuy nhiên việc sử dụng thuyết Gauge để mô tả các hạt tương tác mạnh là hết sức khó khăn. Sự tương tác giữa hadron quá mạnh đến nỗi sự phân biệt giữa hạt và lực bị triệt tiêu và, vì thế, QCD không được sử dụng thành công để mô tả tiến trình có hạt gây tương tác mạnh. Nó chỉ ứng dụng được cho một số ít hiện tượng rất đặc biệt – trong tiến trình gọi là Deep Inelastic (tán xạ mạnh không đàn hồi) – trong đó hạt phản ứng, ta chưa hiểu hết lý do, hao hao giống như vật thể cổ điển. Dù có nhiều cố gắng lớn lao, nhà vật lý vẫn chưa áp dụng được QCD ngoài một số hiện tượng nhỏ hẹp và hy vọng ban đầu về vai trò của nó trong khuôn khổ lý thuyết nhằm suy ra tính chất của các hạt tương tác mạnh, tới nay hy vọng đó không được đáp ứng.
Sắc động lượng tử đại diện cho phát biểu toán học hiện nay về mô hình quark (xem chương 16), Trong đó trường được liên hệ với quark và chromo được dựa trên tính chất có màu của các trường quark này. Cũng như tất cả thuyết Gauge, QCD được mô hình hóa dựa theo động điện lượng tử (QED). Trong QED, tương tác điện từ được kiểm soát bởi sự hoán chuyển các gluon giữa các hạt quark có màu. Những hạt này không phải là hạt thật mà chỉ là loại lượng tử, chúng dán các quark với nhau để tạo thành menson và baryon.
Trong thập niên qua, mô hình quark được mở rộng và tinh tế hơn, đáng kể khi nhiều hạt mới được phát hiện trong thí nghiệm va chạm cao năng lượng. Như trình bày trong chương 16, mỗi một của ba hạt giả định ban đầu và được dán thêm các vị up, down và strange phải xuất hiện trong ba màu, và sau đó là một hạt quark thứ tư được giả định, cũng lại xuất hiện trong ba màu và được gắn thêm vị c-harm. Gần đây hơn, hai vị mới được thêm cho mô hình, được gọi là t và b, viết tắt của top và bottom (hay nói văn vẻ hơn, cho true và beautiful), chúng mang tổng số các hạt lên 18 – sáu vị và ba màu. Vì thế cũng chẳng ngạc nhiên gì khi nhiều nhà vật lý thấy đa số những đơn vị vật chất cơ sở này không hấp dẫn nữa và đã đề xuất là đã tới lúc nghĩ ra những hạt nhỏ hơn, thật sự cơ bản, những hạt đó là thành phần cấu tạo nên quark…
Trong lúc tất cả những lý thuyết và mô hình này phát triển, nhà thực nghiệm tiếp tục tìm kiếm các hạt quark thực sự, nhưng không tìm ra hạt nào cả và sự vắng mặt triền miên của các hạt quark trở thành vấn đề chính của mô hình quark. Trong khuôn khổ của QCD, hiện tượng vắng mặt quark đã được mang tên là quark bị giam, có nghĩa là hạt quark, vì lý do nào đó, đã bị giam giữ trong hadron và vì thế ta không bao giờ thấy nó. Nhiều cơ chế đã được đề ra để tính sự giam giữ của quark, nhưng tới nay chưa có lý thuyết nào hợp lý được đề xuất.
Đó là tình trạng hiện nay của mô hình quark: để lý giải cấu trúc được quan sát trong mọi hadron, ta cần ít nhất là 18 hạt quark cộng thêm 8 gluon; không hạt nào trong số đó được phát hiện có thật và sự hiện hữu của chúng với tính cách là thành phần của hadron sẽ đưa đến nhiều khó khăn về mặt lý thuyết; nhiều mô hình đã được đề xuất để giải thích sự giam giữ thường xuyên của nó nhưng không có thuyết nào cho thấy một thuyết động khả dĩ, trong lúc QCD, khuôn khổ lý thuyết của mô hình quark, chỉ có thể áp dụng trong phạm vi rất nhỏ hẹp của hiện tượng. Mặc những khó khăn đó, phần lớn các nhà vật lý vẫn còn đeo bám nơi ý niệm của những hạt cơ bản xây dựng nên vật chất, chúng đã bắt rễ sâu xa trong truyền thống khoa học phương Tây.
Phần lớn các phát triển đầy ấn tượng trong vật lý hạt, có lẽ, đã xảy ra gần đây trong thuyết ma trận S và phép Dung thông (xem chương 17 và 18), đó là thuyết không thừa nhận có một đơn vị nào là cơ bản mà tìm cách hiểu thiên nhiên một cách toàn thể thông qua tính chất tự tương thích của nó. Tôi đã nói rõ trong cuốn sách này là xem triết học dung thông là đỉnh cao của tư duy khoa học hiện nay và cũng đã nhấn mạnh đó là thuyết tới gần nhất với tư tưởng phương Đông, trong cả triết lý toàn thể và hình ảnh đặc biệt về vật chất. Đồng thời, nó cũng là cách tư duy rất khó cho nền vật lý, hiện nay chỉ có một số nhỏ nhà vật lý theo đuổi nó. Đối với phần lớn thành viên của cộng đồng vật lý thì triết học Dung thông quá xa lạ với cách suy nghĩ truyền thống để được trọng thị nghiêm túc, và sự thiếu trọng thị này cũng lan qua cho cả thuyết ma trận S. Điều kỳ lạ và nổi bật là, mặc dù những khái niệm cơ bản của thuyết này được tất cả nhà vật lý hạt sử dụng mỗi khi họ phân tích kết quả thí nghiệm phân tán và so sánh chúng với những tiên đoán lý thuyết, đến nay chưa có giải Nobel nào thừa nhận các nhà vật lý xuất sắc đã góp phần vào sự phát triển của thuyết ma trận S trong hai thập niên qua.
Sự thách thức lớn nhất đề ra cho thuyết ma trận S và Dung thông luôn luôn là quan tâm đến cấu trúc quark của hạt hạ nguyên tử. Mặc dù sự hiểu biết hiện nay của chúng ta về thế giới hạ nguyên tử loại bỏ sự hiện hữu của quark như hạt vật lý, không còn nghi ngờ gì tính đối xứng quark trong hadron sẽ được giải thích bằng một lý thuyết hoàn chỉnh về tương tác mạnh. Gần đây cách tiếp cận Dung thông không giải thích được những bất thường nổi bật đó, nhưng khoảng sáu mươi năm trở lại đây đã có một sự đột khởi trong thuyết ma trận S. Điều này đã được đúc kết trong Dung thông về hạt, thuyết này có thể giải thích các cấu trúc quan sát được của quark mà không cần giả định phải có sự hiện hữu của hạt quark lý tính. Hơn thế nữa, thuyết mới Dung thông làm sáng tỏ một số câu hỏi mà trước kia người ta không hiểu.
Để hiểu cốt tủy của sự phát triển mới này, ta cần làm rõ ý nghĩa của cấu trúc quark trong khuôn khổ của thuyết ma trận S. Trong mô hình quark thì hạt được hình dung chủ yếu như những trái banh bi-da, chúng chứa trong đó những trái banh bi-da nhỏ. Còn trong phép ma trận S, mang tính toàn thể và động, thì hạt là những cấu trúc năng lượng liên hệ với nhau trong một tiến trình vũ trụ đang vận hành; đang nối kết lẫn nhau, đang tương tác với nhau của những phần tử trong một tấm lưới vũ trụ không thể chia cắt. trong khuôn khổ như thế, từ cấu trúc quark nói đến thực tế là sự chuyển đổi năng lượng và dòng chảy của thông tin trong hệ thống biến cố phải đi theo những con đường được định nghĩa rõ ràng, đó là sinh ra Cái Hai liên hệ với Menson và Cái Ba liên hệ với Baryon. Đó là tính động tương tự như khi cho rằng hadron hàm chứa hạt quark. Trong thuyết ma trận S không có những đơn vị khác hẳn nhau và không có đơn vị xây dựng nào là cơ bản; chỉ có một dòng chảy của năng lượng cho thấy những cấu trúc được định nghĩa rõ ràng.
Thế thì, câu hỏi là làm sao những cấu trúc đặc trưng của quark xuất hiện được? Yếu tố then chốt của thuyết Dung thông mới là khái niệm về thứ bậc, nó là khía cạnh mới và quan trọng của vật lý hạt. Thứ bậc trong khung cảnh này là thứ bậc nằm trong tương quan của các tiến trình hạ nguyên tử. Có nhiều cách mà phản ứng hạt liên kết lẫn nhau và theo đó, người ta có thể định nghĩa nhiều loại thứ bậc. Ngôn ngữ của topology (công cụ toán học chuyên khảo sát một liên hệ) đã được các nhà toán học biết đến nhưng chưa bao giờ được áp dụng trong vật lý hạt – nay được sử dụng để phân loại thứ bậc được thể hiện trong khuôn khổ toán học của thuyết ma trận S, thì ngược lại, chỉ một ít thể loại của mối liên hệ có thứ bậc tương thích với tính chất của ma trận S đã biết. Các thể loại thứ bậc này rõ ràng là những cấu trúc quark đã được quan sát trong thiên nhiên. Thế nên, cấu trúc quark hiện ra, xem như biểu trưng của thứ bậc và nhất thiết phải tự tương thích, mà không cần phải giả định quark là phần cấu tạo hadron.
Sự phát sinh của thứ bậc như một khái niệm mới và trung tâm của vật lý hạt không chỉ dẫn đến một sự đột phá trong thuyết ma trận S, mà còn có thể mở những con đường đi xa cho toàn bộ khoa học. Hiện nay, ý nghĩa của thứ bậc trong vật lý hạ nguyên tử vẫn còn như bí ẩn và chưa được khám phá hoàn toàn. Tuy thế, thật thú vị khi thấy rằng, cũng như ba nguyên lý của ma trận S, khái niệm thứ bậc đóng một vai trò cơ bản trong việctiếp cận khoa học với thực tại và là khái niệm then chốt của phương pháp quan sát. Thừa nhận thứ bậc xem ra là một khía cạnh chủ yếu của tư duy; mỗi sự nhận thức một cấu trúc, trong một nghĩa nhất định, là một sự nhận thức thứ bậc. Làm sáng tỏ khái niệm về thứ bậc trong lĩnh vực nghiên cứu, trong đó cấu trúc của vật chất và cấu trúc của tinh thần càng lúc càng được xem là phản ánh lẫn nhau, việc đó hứa hẹn sẽ mở ra những chân trời hấp dẫn của nhận thức.
Theo Geoffrey Chew, người tiên phong đề xuất ý niệm Dung thông và cũng là nhân tố đoàn kết cũng như nguyên thủ triết học trong thuyết ma trận S của hai thập niên qua, việc mở rộng của cách tiếp cận Dung thông qua sự mô tả hadron có thể đưa đến khả năng bất ngờ là buộc phải đưa ý thức con người vào hẳn trong lý thuyết tương lai về vật chất. Chew viết “Một bước đi tương lai như thế, sẽ vô cùng sâu sắc hơn mọi thứ đã đạt được liên quan tới Hadron – Dung thông…”. Sự cố gắng hiện nay của chúng ta với hadron – Dung thông chỉ là khái niệm đầu tiên cho một dạng hình hoàn toàn mới của một nỗ lực của tư duy con người. Từ khi ông viết những dòng này, hầu như mười lăm năm qua, sự phát triển mới của ma trận S đã đưa Chew tới gần một cách đáng kể với vai trò ý thức. Hơn thế nữa, ông không phải là nhà vật lý duy nhất của hướng đi này. Trong những nghiên cứu gần đây, một trong những phát triển hứa hẹn nhất là một thuyết mới được đề xuất bởi David Bohm, có lẽ là người đi xa hơn bất kỳ ai khác về việc nghiên cứu mối liên hệ giữa ý thức và vật chất trong khung cảnh khoa học. Phép tiếp cận của Bohm là tổng quát hơn và tham vọng hơn thuyết hiện nay của ma trận S và có thể được xem là một cố gắng để dung thông không gian – thời gian, nhằm suy ra một thuyết tương thích của lượng tử – tương đối.
Điểm xuất phát của Bohm là, như tôi đã trình bày trong chương 10, nội dung của một cái toàn thể không tách rời và ông nhìn các mối liên hệ liên thông mà chúng đã được nêu trong thí nghiệm EPR, là một khía cạnh chủ yếu của cái toàn thể đó. Các liên hệ liên thông bây giờ là nguồn gốc của các phát biểu có tính chất thống kê trong các định luật của vật lý lượng tử, thế nhưng Bohm còn muốn đi xa hơn tính xác suất và sự phát hiện ra thứ bậc, đó là điều mà ông tin là tự tính của mạng lưới liên hệ vũ trụ tại một lĩnh vực sâu xa, phi hình tướng. Ông gọi thứ bậc này là nội tại hay ràng buộc, thứ bậc mà trong đó các mối liên hệ của cái toàn thể không can dự gì với nơi chốn trong thời gian hay không gian, chúng cho thấy một tính chất ràng buộc hoàn toàn khác.
Bohm sử dụng hình ảnh ba chiều hologram (ảnh toàn ký) như một ẩn dụ cho thứ bậc nội tại, vì tính chất đặc biệt của hình ảnh này là mỗi phần của nó, trong nghĩa nhất định, chứa đựng cái toàn bộ. Nếu mỗi phần của hologram được chiếu sáng lên, thì toàn bộ hình ảnh sẽ tái hiện, mặc dù nó ít chi tiết hơn là hình ảnh của hologram toàn thể. Theo cách nhìn của Bohm, thế giới thực tại có cơ cấu của nguyên lý đó, tức là cái toàn thể bị ràng buộc trong mỗi phần của chính nó.
Bohm thừa nhận rằng, tất nhiên, sự tương đồng với hologram quá hạn chế để có thể sử dụng nó như một mô hình khoa học cho thứ bậc nội tại trong lĩnh vực hạ nguyên tử, và để phát biểu tính chất động chủ yếu của thực tại trong lĩnh vực này, ông đã gắn chữ holomovement (vận động toàn thể) xem là nền tảng của mọi đơn vị hiện tượng. Theo cách nhìn của Bohm thì holomovement là một hiện tượng động, từ đó mọi dạng của vũ trụ vật chất xuất ra. Mục đích của sự tiếp cận này là nghiên cứu thứ bậc ràng buộc trong holomovement, không phải thông qua cấu trúc vật thể, mà với cấu trúc của sự vận hành, nhờ thế mà đáp ứng được hai đòi hỏi của tính nhất thể và tính động của vũ trụ.
Theo Bohm không gian và thời gian đều là sắc thể, xuất phát từ holomovement mà ra; chúng cũng bị ràng buộc trong thứ bậc của chúng. Bohm tin rằng sự hiểu biết thứ bậc nội tại sẽ không chỉ dẫn đến một sự hiểu biết toàn diện hơn về xác suất trong vật lý lượng tử, mà còn cho phép ta suy ra những tính chất cơ bản của không gian – thời gian tương đối. Thế nên, thuyết về thứ bậc nội tại sẽ cung cấp một cơ sở chung cho cả hai thuyết lượng tử và tương đối.
Nhằm hiểu thứ bậc nội tại, Bohm cho rằng cần phải xem ý thức là môt đặc trưng chủ yếu của holomovement và phải đưa hẳn nó vào trong lý thuyết của mình. Ông xem tinh thần và vật chất là phụ thuộc lẫn nhau và tương thích với nhau, nhưng không nối nhau theo tính nhân quả. Cả hai đều là sự phản chiếu, ràng buộc lẫn nhau, của một thực tại cao hơn, thực tại đó không phải vật chất cũng chẳng phải ý thức.
Hiện nay, thuyết của Bohm vẫn còn nằm trong dạng thử nghiệm và mặc dù ông đã phát triển một dạng toán học gồm ma trận và topology, phần lớn những phát biểu của ông vẫn còn định tính hơn định lượng. Tuy thế, dù mới ở giai đoạn ban đầu, thuyết của ông về thứ bậc nội tại dường như tương cận với thuyết Dung thông của Chew. Cả hai tiếp cận này dựa trên thế giới quan chung của một mạng lưới động gồm toàn liên hệ; cả hai cho khái niệm thứ bậc nội tại dường như tương cận với thuyết Dung thông của Chew. Cả hai tiếp cận này dựa trên thế giới quan chung của một mạng lưới động gồm toàn liên hệ; cả hai cho khái niệm thứ bậc có một vai trò trung tâm; cả hai sử dụng ma trận để biểu diễn sự thay đổi và chuyển hóa và dùng topology để phân loại thứ bậc. Cuối cùng, cả hai tiếp cận này đều thừa nhận là ý thức có lẽ là khía cạnh chủ yếu của vũ trụ, nó cần được gắn vào trong lý thuyết của tương lai về hiện tượng vật lý. Một lý thuyết như thế có thể xuất phát từ sự hợp nhất hai thuyết của Bohm và Chew, nó sẽ đại diện cả hai tiếp cận sáng tạo nhất và mang tính triết học sâu xa về thực tại vật lý.
Tương Lai của Nền Vật Lý Mới
Lời cuối cho bản in lần thứ ba
HÌNH ẢNH
Nguồn gốc của Đạo của vật lý xuất phát từ trong một thể nghiệm mạnh mẽ mà tôi trải qua trong mùa hè năm 1969 trên bãi biển ở Santa Cruz, được mô tả trong lời nói đầu của sách này. Một năm sau, tôi rời California để tiếp tục việc nghiên cứu ở Imperial College ở London, và trước khi tôi đi ghép một tấm hình – Shiva nhảy múa, ngự trị trên các hạt đang va chạm trong buồng đo – để minh họa chứng nghiệm của tôi về sự nhảy múa vũ trụ trên bãi biển. Hình ảnh đẹp tuyệt này đối với tôi là biểu tượng của sự song hành giữa vật lý và đạo học mà tôi vừa bắt đầu khám phá. Một ngày nọ, cuối thu năm 1970, khi ngồi trong nhà gần Imperial College và nhìn bức tranh, bỗng nhiên tôi có một nhận thức rất rõ ràng. Tôi biết với một sự chắc chắn tuyệt đối rằng sự tương đồng giữa vật lý hiện đại và đạo học phương Đông ngày nào đó sẽ trở thành nhận thức chung; và tôi cũng cảm thấy mình đang ở vị trí tốt nhất để phát hiện ra những sự tương đồng này một cách nhất quán và để viết một cuốn sách về chúng.
Năm năm sau, mùa thu năm 1975, Đạo của vật lý được xuất bản lần đầu. Bây giờ, mười lăm năm sau, tôi muốn nêu nhiều câu hỏi: Hình ảnh tôi thấy đã trở thành sự thực? Phải chăng những tương đồng giữa vật lý hiện đại và đạo học phương Đông ngày nay dứt khoát đã là nhận thức chung hay, ít nhất, đang trở thành nhận thức chung? Liệu luận điểm đầu tiên của tôi còn có giá trị hay nó cần phát biểu lại? Đâu là những phê bình chính yếu về luận điểm của tôi và ngày nay tôi phải trả lời thế nào? Và cuối cùng, bản thân những cái nhìn của tôi, chúng biến đổi như thế nào và đâu là chỗ để có thể thực hiện những công trình tương lai? Trong lời cuối này, tôi muốn trình bày những câu trả lời của mình về những câu hỏi đó, với tất cả cẩn trọng và thành thực.
Tác động của cuốn sách
Mười lăm năm qua, Đạo của vật lý đã được độc giả nồng nhiệt đón nhận, điều này đã vượt qua sự mong chờ táo bạo nhất của tôi. Khi viết, bè bạn tại London nói với tôi rằng bán được mười ngàn cuốn sách đã là một thành công lớn, và tôi âm thầm hy vọng rằng sẽ bán được năm mươi ngàn cuốn. Ngày nay số sách bán ra toàn thế giới đã lên đến trên một triệu cuốn: Đạo của vật lý đã được dịch ra hơn mười mấy ngôn ngữ; các bản dịch khác đang được chuẩn bị và những bản in khác đang in và bán chạy.
Sự đáp ứng to lớn này đã có tác động mạnh mẽ to lớn trong đời tôi . Trong suốt mười lăm năm qua tôi đã đi rất nhiều, đã diễn thuyết trước những cử tọa chuyên ngành và không chuyên, tại Mỹ, châu Âu, châu Á và thảo luận về những hướng đi của nền vật lý mới với mọi người trong mọi nẻo đường của đời sống. Những sự thảo luận này đã giúp tôi rất nhiều để hiểu được hết khung cảnh văn hóa rộng rãi của tác phẩm mình, và bây giờ tôi thấy chính khung cảnh này là lý do chính của sự đón tiếp nồng nhiệt đó. Tôi luôn luôn được chứng kiến lại cảnh cuốn sách và bài nói của mình đã gây một cộng hưởng mạnh mẽ trong mọi người. Đã nhiều lần mọi người viết cho tôi hoặc nói với tôi sau buổi thuyết giảng: “Ông đã nói lên một điều mà tôi đã cảm thấy từ lâu mà không viết được bằng lời”. Thường thường những người đó không phải là nhà khoa học, họ cũng chẳng phải nhà đạo học. Họ là những người bình thường và cũng lại là những người rất lạ: nghệ sĩ, bà già, thương nhân, giáo viên, nông gia, cô y tá; những người thuộc mọi lứa tuổi, nhiều người trên hay dưới năm mươi. Một số ít là những vị già cả. Phần lớn những bức thư cảm động nhất là của những cụ già trên bảy mươi, trên tám mươi và trong hai ba trường hợp là cả trên chín mươi!
Đạo của vật lý đã đánh thức được gì trong những con người này ? Bản thân họ đã có chứng nghiệm gì? Tôi đã tới chỗ phải tin rằng sự thừa nhận mối tương đồng giữa vật lý hiện đại và đạo học phương Đông là yếu tố của một quá trình vận động to lớn, một sự thay đổi tận gốc rễ của thế giới quan, hay các mẫu hình của khoa học và xã hội, nó đang diễn ra rộng khắp ở châu Âu và Bắc Mỹ và dẫn đến một sự chuyển hóa văn hóa sâu sắc. Sự chuyển hóa này, sự thay đổi ý thức sâu đậm này, chính là điều mà nhiều người cảm thấy một cách trực giác trong hai hay ba thập niên vừa qua, và đó là lý do tại sao Đạo của vật lý đã tạo ra một tác động như thế.
Sự thay đổi mẫu hình
Trong cuốn sách thứ hai , The Turning Point (Bước ngoặt), tôi đã nghiên cứu hệ quả xã hội của sự thay đổi hiện nay về các mẫu hình. Điểm xuất phát của sự nghiên cứu này là khẳng định rằng các vấn đề chính của thời đại chúng ta – sự đe dọa chiến tranh hạt nhân, sự hủy hoại môi trường sống, sự bất lực của chúng ta khi đối đầu với cảnh nghèo nàn và đói khát trên thế giới, nếu chỉ kể những vấn đề trọng đại nhất – tất cả là những mặt khác nhau của một cuộc khủng hoảng duy nhất, đó chủ yếu là một cuộc khủng hoảng về nhận thức. Chúng xuất phát từ sự thực là phần lớn chúng ta – và đặc biệt là cơ chế xã hội to lớn của ta – nằm dưới những khái niệm và giá trị của một thế giới quan lỗi thời, dưới những mẫu hình không đủ sức để đối trị những vấn đề của một thế giới nhân mãn, liên hệ lẫn nhau một cách toàn cầu. Đồng thời, đáng mừng thay, nhiều nhà nghiên cứu của những ngành mũi nhọn khoa học, các phong trào xã hội khác nhau, và nhiều nhà mạng lưới khác cũng đang phát triển một tầm nhìn mới về thực tại, nó sẽ hình thành cơ sở của ta về các công nghệ tương lai, hệ thống kinh tế và cơ chế xã hội.
Những mẫu hình bây giờ bắt đầu rút lui là những thứ đã ngự trị trên nền văn hóa của chúng ta từ vài trăm năm nay, nó đã khắc họa đời sống xã hội phương Tây và ảnh hưởng quyết định lên thế giới còn lại. Những mẫu hình này gồm có một số ý niệm và giá trị, trong đó vũ trụ quan là một hệ thống cơ học gồm có các hạt cơ bản, cách nhìn thân người như một cái máy, cách nhìn cuộc đời là một sự đấu tranh giành giật kiếm sống, niềm tin nơi sự tiến bộ vô tận của vật chất giành được bằng sự lớn mạnh kinh tế và kỹ thuật, và – cuối cùng, không phải là không quan trọng – niềm tin rằng xã hội trong đó nữ giới luôn luôn nằm dưới sự lãnh đạo của nam giới là tự nhiên. Trong những thập niên qua, tất cả những giả định đó đã được khám phá ra hết sức hạn chế và cần sửa đổi một cách triệt để.
Thực tế là sự sửa đổi đó đang diễn ra. Những mẫu hình mới đang xuất hiện có thể mô tả bằng nhiều cách khác nhau. Nó có thể gọi là thế giới quan toàn thể, xem thế giới như là một thể thống nhất chứ không phải là tập hợp của nhiều thành phần. Nó cũng có thể được gọi là một thế giới quan sinh thái và đó là từ mà tôi thấy đúng nhất. Tôi dùng từ sinh thái ở đây trong nghĩa rộng và sâu hơn người ta dùng. ý thức sinh thái trong nghĩa sâu này thừa nhận mối tương quan của tất cả hiện tượng là cơ bản và bao gồm cá thể lẫn xã hội trong một tiến trình có chu kỳ của thiên nhiên.
Mẫu hình sinh thái được khoa học hiện đại hỗ trợ, nhưng nó bắt rễ từ một nhận thức về thực tại, nhận thức đó thoát khỏi khuôn khổ khoa học để tới với một ý thức về sự nhất thể trong mọi đời sống, sự liên hệ lẫn nhau của những hiện tượng muôn vẻ và những chu kỳ về thay đổi và chuyển hóa của chúng. Cuối cùng, ý thức sinh thái sâu xa đó là ý thức về tinh thần. Khi khái niệm của tinh thần con người được hiểu như là dạng của ý thức, với nó, con người cảm thấy mình nối liền với vũ trụ như một cái toàn thể, thì rõ là ý thức sinh thái mang tính tâm linh trong nghĩa sâu nhất, và khi đó sẽ không lạ gì nếu hình ảnh mới về thực tại rất hòa điệu với hình ảnh của các truyền thống tâm linh.
Bây giờ, ta có thể nói rõ về khung cảnh rộng rãi của Đạo của vật lý. Nền vật lý mới là một phần không tách rời của thế giới quan mới, nó đang xuất hiện trong mọi khoa học và xã hội. Thế giới quan mới là một thế giới quan sinh thái, nói cho cùng thì có đặt cơ sở trên ý thức tâm linh.
Luận điểm ban đầu của tôi như thế vẫn còn giá trị và rõ hơn khi được phát biểu lại và đặt trong một khung cảnh rộng hơn. Đồng thời, nó cũng được khẳng định bởi những phát triển gần đây trong các ngành khoa học khác, đáng kể nhất trong sinh vật và tâm lý học,và bây giờ tôi thấy mình đứng trên một sơ sở vững chắc hơn nhiều. Thậm chí bây giờ còn rõ hơn trước là đạo học hay triết học vĩnh cửu, có người gọi như thế, cung cấp những cơ sở triết học nhất quán cho các mẫu hình khoa học mới.
Sự thừa nhận này chưa phải là nhận thức chung của mọi người, nhưng nó đang mở rộng một cách vững chắc, bên trong và bên ngoài khoa học. Theo vết của Đạo của vật lý có khoảng ít nhất cả chục cuốn sách rất thành công nói về mối liên hệ giữa khoa học hiện đại và truyền thống đạo học, và cũng có nhiều hội nghị quốc tế lớn về đề tài này thu hút nhiều nhà khoa học xuất sắc, kể cả vài vị đoạt giải Nobel, cũng như đại diện cao cấp của các tổ chức truyền thống tâm linh. Thông điệp ban đầu của tôi đã được nhân lên rộng rãi trong các biến cố đó.
Ảnh Hưởng của Heisenberg và Chew
Bây giờ tôi xin trở lại những mẫu hình mới trong khoa học và thảo luận về những đặc trưng chính của chúng. Gần đây tôi đã thử tìm một nhóm những tiêu chuẩn cho tư duy về mẫu hình mới trong khoa học. Tôi đề xuất sáu tiêu chuẩn; hai cái đầu nói về cách nhìn về thiên nhiên, bốn cái sau về nhận thức luận của chúng ta. Tôi nghĩ rằng bốn tiêu chuẩn này là đặc trưng cho tư duy theo mẫu hình mới trong tất cả mọi khoa học, nhưng như đã nói trong lời cuối của Đạo của vật lý, tôi sẽ minh họa chúng với các thí dụ của ngành vật lý, và tôi sẽ nhắc lại ngắn gọn chúng được phản ánh trong các truyền thống đạo học phương Đông như thế nào.
Trước khi đi vào thảo luận sáu tiêu chuẩn, tôi xin nhắc lại với lòng biết ơn sâu xa món nợ của tôi đối với hai nhà vật lý xuất chúng, hai vị đó để lại nơi tôi nguồn cảm hứng chủ yếu và đã ảnh hưởng quyết định lên tư duy khoa học của tôi: Werner Heisenberg và Geoffrey Chew. Tác phẩm của Heisenberg Physics and Philosophy, thành tựu cổ điển của ông về lịch sử và triết học và triết học của vật lý lượng tử, đã tạo ảnh hưởng to lớn khi tôi còn là sinh viên bắt đầu đọc cuốn đó. Cuốn sách này trở thành bạn đồng hành của tôi suốt thời gian học tập và công tác với tư cách nhà vật lý, và hôm nay tôi thấy chính Heisenberg đã gieo những hạt giống cho Đạo của vật lý. Tôi có may mắn được gặp Heisenberg trong đầu những năm bảy mươi. Tôi đã có những cuộc thảo luận dài với ông và khi tôi hoàn tất Đạo của vật lý , tôi cùng ông dò suốt lại bản thảo, từng chương. Chính sự hỗ trợ và cảm hứng của cá nhân Heisenberg đã cùng tôi đi hết những năm tháng khó khăn; những lúc cô đơn không ai ủng hộ khi tôi phát triển và trình bày một ý niệm hoàn toàn mới.
Geoffrey Chew thuộc về một thế hệ khác với Heisenberg và với các nhà sáng lập lớn khác của ngành vật lý lượng tử, và tôi không nghi ngờ gì các nhà lịch sử tương lai của khoa học sẽ đánh giá sự cống hiến của ông cho nền vật lý của thế kỷ 20 cũng xuất sắc như các vị kia. Nếu Einstein làm cuộc cách mạng cho tư tưởng khoa học với thuyết tương đối, còn Bohr và Heisenberg với giải thích về cơ học lượng tử đã mang lại những thay đổi đảo lộn mà bản thân Einstein cũng từ chối không chấp nhận, thì Chew đã làm bước cách mạng thứ ba trong nền vật lý thế kỷ 20. Thuyết Bootstrap (Dung thông) của ông về hạt đã thống nhất cơ học lượng tử và thuyết tương đối trong một thuyết, thuyết này tiêu biểu sự từ bỏ quyết liệt cách tiếp cận của phương Tây về khoa học cơ bản.
Tôi bị lý thuyết và triết học của Chew thu hút mãnh liệt kể từ ngày tôi gặp ông cách đây hai mươi năm và tôi có hân hạnh được cộng tác chặt chẽ và liên tục trao đổi tư tưởng với ông. Những cuộc thảo luận thường xuyên này là suối nguồn của sự cảm hứng liên tục và đã hình thành một cách quyết định toàn bộ quan điểm khoa học của tôi.
NHỮNG MẪU HÌNH MỚI TRONG TƯ DUY KHOA HỌC
Bây giờ tôi xin phép trở lại sáu tiêu chuẩn về những mẫu hình tư duy mới trong tư duy khoa học.
Tiêu chuẩn thứ nhất nói đến mối quan hệ giữa cái riêng biệt và cái toàn thể. Trong mẫu hình khoa học có tính cơ khí cổ điển, người ta tin rằng sự vận động của mỗi hệ thống phức tạp có thể được hiểu thông qua tính chất của từng thành phần riêng biệt. Một khi ta biết các thành phần riêng biệt – tính chất cơ bản của chúng và cơ chế tương tác của chúng – ta có thể suy ra, ít nhất về mặt nguyên lý, sự vận động của cái toàn thể. Vì thế nguyên tắc là nhằm tìm hiểu mọi hệ thống phức tạp, ta phá vỡ nó ra từng mảnh nhỏ. Bản thân các mảnh này không được dùng để giải thích gì thêm, trừ phi ta lại bẻ nhỏ chúng ra những mảnh nhỏ hơn. Cứ tiếp tục mãi trong quá trình này, ta luôn luôn sẽ đến một chỗ dừng, đó là tại một nơi mà ta có những hạt cơ bản xây dựng nên hệ thống: những yếu tố, những chất liệu, những hạt, và vân vân – với những tính chất mà ta không giải thích được nữa. Từ những đơn vị cơ bản này với những qui luật căn bản hay sự tương tác của chúng, ta sẽ xây dựng lại một toàn thể to lớn và tìm cách giải thích sự vận động của nó bằng tính chất của các thành phần riêng biệt. Cách này đã khởi đầu với Democritus trong thời thượng cổ Hy Lạp; đó là tiến trình đã được thành hình với Descartes và Newton, và đó la cách nhìn khoa học được thừa nhận đến thế kỷ 20.
Trong mẫu hình mới, mối liên hệ giữa cái toàn thể và cái riêng biệt đối xứng hơn nhiều. Ta tin rằng, trong lúc tính chất của cái riêng biệt dĩ nhiên giúp cho sự hiểu biết về cái toàn thể, đồng thời tính chất của cái riêng biệt cũng chỉ có thể được hiểu hết thông qua sự vận động của cái toàn thể. Cái toàn thể là chủ đạo, và một khi ta hiểu sự vận hành của cái toàn thể thì ta có thể suy ra, ít nhất trên mặt nguyên tắc, tính chất và cấu trúc tương tác của các thành phần riêng biệt. Sự thay đổi này trong mối quan hệ giữa cái toàn thể và cái riêng biệt xảy ra trong khoa học trước hết trong ngành vật lý, khi thuyết lượng tử được phát triển. Trong những năm đó, nhà vật lý phát hiện ra với sự kinh ngạc lớn lao rằng họ không thể sử dụng khái niệm của một thành phần – thí dụ một nguyên tử hay một hạt – trong nghĩa cổ điển. Thành phần riêng biệt không còn được định nghĩa rõ ràng được nữa. Chúng cho thấy nhiều tính chất khác nhau, tùy theo khuôn khổ thí nghiệm khác nhau.
Dần dần, nhà vật lý nhận ra rằng, thiên nhiên, trong lĩnh vực nguyên tử, không xuất hiện như một vũ trụ cơ học gồm có các đơn vị xây dựng cơ bản, mà như một mạng lưới của các mối liên hệ và rằng, cuối cùng, chẳng có thành phần riêng tư nào cả trong mạng lưới liên hệ chằng chịt đó. Cái mà ta gọi là thành phần chỉ là cấu trúc có một sự ổn định nhất định và gây nơi ta sự chú ý. Heisenberg là người bị ấn tượng hết sức mạnh về mối quan hệ mới của cái toàn thể và cái riêng biệt, đến nỗi ông đặt tên cho tác phẩm tự thuật đời mình là Der Teil und das Ganze (Cái riêng biệt và cái toàn thể).
Sự thừa nhận của tính thống nhất và mối liên hệ qua lại của mọi sự vật và biến cố, sự chứng thực rằng mọi hiện tượng đều là dạng xuất hiện của một cái nhất cơ bản, đó cũng là đặc trưng chung quan trọng nhất của thế giới quan phương Đông. Người ta có thể nói đó là cái cốt tủy của mọi quan niệm đó. Tất cả mọi sự vật được xem là liên hệ chằng chịt với nhau, không tách rời nhau, và chúng đều là cấu trúc của một thể thực tại cuối cùng.
Tiêu chuẩn thứ hai của mẫu hình tư duy mới trong khoa học liên hệ tới sự thay đổi, thay quan niệm về cơ cấu bằng quan niệm về tiến trình. Trong mẫu hình cũ, người ta nghĩ rằng có những cấu trúc cơ bản, và rồi có lực và cơ chế thông qua đó mà lực tác động, rồi vì thế mà sinh ra tiến trình. Trong mẫu hình mới, ta nghĩ tiến trình là chủ đạo, mỗi một cấu trúc mà ta quan sát được đều là dạng xuất hiện của một tiến trình cơ bản.
Tư duy tiến trình này đi vào vật lý với thuyết tương đối của Einstein. Sự nhận thức khối lượng là một dạng của năng lượng đã loại bỏ khái niệm của một chất liệu vật chất ra khỏi khoa học, và với sự loại bỏ này, nó không còn là một cấu trúc cơ bản nữa. Các hạt hạ nguyên tử không phải do bất cứ vật chất nào tạo thành; tất cả chúng đều là cấu trúc của năng lượng. Thế nhưng, năng lượng luôn luôn được kết hợp với hoạt động, với tiến trình, và điều này dẫn đến thực tế là các hạt hạ nguyên tử đều tự nó là động. Khi quan sát chúng, không bao giờ ta thấy chất liệu nào cả, cũng không cấu trúc cơ bản nào cả. Điều ta thấy chỉ là cấu trúc động của sự biến hóa liên tục từ cái này qua cái khác – một điệu vũ liên tục của năng lượng.
Tư duy tiến trình cũng là đặc trưng chủ yếu của truyền thống đạo học phương Đông. Phần lớn các khái niệm, linh ảnh và huyền thoại của họ đều chứa thời gian và biến đổi như là yếu tố cốt tủy. Càng nghiên cứu kinh sách của Ấn Độ giáo, Phật giáo và Lão giáo, ta càng thấy rõ trong tất cả giáo pháp đó, thế giới được nhận thức trong sự vận động, trôi chảy, và biến đổi. Rõ ràng là hình ảnh của điệu múa vũ trụ của Shiva, trong đó mọi sắc thể đều liên tục hình thành và biến hoại, đã mở cho tôi cặp mắt để thấy những tương đồng giữa vật lý hiện đại và đạo học phương Đông.
Trong vật lý hiện đại, hình ảnh vũ trụ như một bộ máy đã được thay thế bằng một cái toàn thể liên hệ chằng chịt lẫn nhau, trong đó các thành phần riêng biệt chủ yếu phụ thuộc lẫn nhau và cần phải được hiểu như những câú trúc của một tiến trình vũ trụ. Nhằm định nghĩa một vật thể trong mạng lưới đầy những liên hệ này, ta cắt rời một số liên hệ đó – một cách khái niệm, cũng như xem nó có một cách vật lý với thiết bị đo lường của chúng ta – và với cách đó ta cô lập một số cấu trúc và xem chúng là vật thể. Nhiều quan sát viên có thể làm nhiều cách khác nhau. Thí dụ khi ta xác định một electron, ta có thể cắt vài mối liên hệ của nó với thế giới còn lại bằng cách sử dụng nhiều phương pháp quan sát khác nhau. Vì thế mà electron có thể xuất hiện như một hạt, và nó có thể xuất hiện như một sóng. Điều ta thấy tùy thuộc nơi ta nhìn nó như thế nào.
Heisenberg chính là người đã mang vai trò hệ trọng của quan sát viên vào trong vật lý lượng tử. Theo Heisenberg, ta không bao giờ có thể nói về thiên nhiên mà không đồng thời nói về chính ta. Và đó sẽ là tiêu chuẩn thứ ba của tôi trong mẫu hình tư duy mới của khoa học. Tôi nghĩ rằng điều này có giá trị cho mọi khoa học hiện đại, và tôi muốn gọi nó là sự biến đổi từ khoa học khách quan qua khoa học bị nhận thức chi phối. Trong mẫu hình cũ, mô tả khoa học được cho là khách quan, tức là, độc lập với người quan sát và với quá trình nhận thức. Trong mẫu hình mới, ta tin rằng Epistemology – tức là khoa học về quá trình nhận thức – phải được đưa hẳn vào trong sự mô tả hiện tượng thiên nhiên. Tại điểm này chưa có một sự đồng thuận trong giới khoa học thế nào là Epistemology đúng nghĩa, nhưng có một sự đồng ý chung là Epistemology phải là một phần hội nhập trong mọi lý thuyết khoa học.
Ý niệm cho rằng tiến trình của nhận thức phải là một phần khăng khít của con người về thực tại thì mỗi học trò của đạo học đều biết rõ.
Nhận thức tâm linh không bao giờ được đạt tới bằng loại quan sát khách quan, cách ly; luôn luôn nó đòi hỏi sự tham gia hoàn toàn của toàn bộ hành giả. Thực tế là, đạo học đi xa hơn nhiều so với quan điểm của Heisenberg. Trong vật lý lượng tử, người quan sát và vật bị quan sát không thể chia cắt, nhưng hai cái đó tiếp tục bị phân biệt. Còn đạo học, trong sự thiền định sâu xa thì sự phân biệt giữa người quan sát và vật bị quan sát hoàn toàn xóa nhòa, trong đó người và vật hòa nhập làm một.
Tiêu chuẩn thứ tư của mẫu hình tư duy mới, có thể là sâu sắc nhất trong tất cả và là khó chấp nhận nhất đối với nhà khoa học. Nó liên quan đến hình dung xưa cũ về nhận thức, xem nhận thức là một tòa kiến trúc. Nhà khoa học hay nói về những định luật căn bản, hay nói về nền tảng, hay cơ sở của một tòa kiến trúc của nhận thức. Kiến thức phải được xây dựng trên nền tảng vững vàng; có những hạt chất liệu cơ bản của vật chất; có những phương trình cơ bản, những hằng số cơ bản, những nguyên lý cơ bản. Hình tượng nhận thức là một toà kiến trúc với một nền tảng chắc chắn đã được sử dụng suốt trong nền khoa học và triết lý phương Tây từ mấy ngàn năm nay.
Tuy thế, nền tảng của nhận thức khoa học, không phải luôn luôn vững chắc. Chúng liên tục bị dời đổi và nhiều lần đã hoàn toàn bị đảo lộn. Bất cứ lúc nào mà một cuộc cách mạng khoa học quan trọng xảy ra, người ta đều cảm thấy nền tảng khoa học bị lay chuyển. Như Descartes viết trong tác phẩm nổi tiếng Discourse on Method (Thảo kuận về phương pháp) trong thời đại của ông: “Tôi nhận thấy rằng chẳng có gì chắc chắn để có thể xây dựng trên đó với nền tảng cứ bị thay đổi luôn thế này”. Sau đó Descartes đã xây dựng nên một nền khoa học mới trên nền tảng chắc chắn, nhưng ba trăm năm sau, Einstein trong tác phẩm tự thuật đời mình, đã viết những dòng sau đây về phát triển của vật lý lượng tử: “Hầu như đất dưới chân tôi bị sụt lở, không ở đâu còn thấy một nền tảng vững chắc nữa, mà trên đó người ta có thể xây dựng một điều gì”.
Lặp đi lặp lại suốt cả lịch sử khoa học, ta luôn luôn thấy nền tảng của nhận thức bị dời đổi, thậm chí bị nghiền nát. Mẫu hình này lại cho khoa học nhớ tới cảm giác như thế, nhưng có thể lần này là lần cuối; không phải là vì không có tiến bộ hay không có thay đổi nữa, mà vì sẽ không có nền tảng nào cả trong tương lai. Có lẽ chúng ta sẽ không thấy cần thiết, trong khoa học tương lai, phải xây dựng nhận thức của mình trên một nền tảng chắc chắn, và ta có thể thay thế hình ảnh của một tòa kiến trúc bằng hình ảnh của một mạng lưới. Cũng chính vì nếu nhìn thực tại quanh ta như một mạng lưới đầy mối liên hệ, thì sự mô tả – hay khái niệm, mô hình, lý thuyết – của ta cũng tạo thành một mạng lưới trình bày các hiện tượng được quan sát. Trong một mạng lưới như thế, không có cái gì là chủ yếu hay thứ yếu, và không có cái gì là cơ bản cả.
Hình ảnh mới về nhận thức như một mạng lưới, vắng bóng nền tảng là hết sức khó chịu đối với nhà khoa học. Nó được Geoffrey Chew là người đầu tiên nêu ra cách đây ba mươi năm trong thuyết Bootstrap (Dung thông) về hạt.
Theo thuyết Dung thông, thiên nhiên không thể được qui lại trên vài đơn vị cơ bản, như những hạt cơ bản vật chất, mà nó phải được hiểu một cách toàn bộ thông qua sự tự dung thông, sự tự tương thích. Sự vật hiện hữu thông qua mối liên hệ tương thích lẫn nhau giữa chúng, và tất cả mọi ngành vật lý chỉ việc tuân thủ đòi hỏi rằng mọi yếu tố phải tương thích lẫn nhau và với chính bản thân chúng.
Suốt ba mươi năm qua, cùng với các cộng sự, Chew đã sử dụng cách tiếp cận Dung thông để đề ra một lý thuyết phù hợp về hạt hạ nguyên tử, cùng với một triết lý chung về thiên nhiên. Triết lý Dung thông này không những khước từ ý niệm về hạt vật chất cơ bản, mà còn không chấp nhận bất cứ đơn vị gì là cơ bản – không có hằng số cơ bản, định luật hay phương trình. Vũ trụ vật chất chỉ được xem là một mạng lưới động gồm các biến cố tác động lên nhau. Không có tính chất nào của bất cứ thành phần riêng biệt nào của mạng lưới là cơ bản; tất cả chúng đều tuân thủ các tính chất của toàn thể các thành phần khác, và sự dung thông ăn khớp toàn bộ của những mối liên hệ chằng chịt của chúng là nhân tố xác định cấu trúc của toàn mạng lưới.
Theo ý kiến tôi, việc triết lý Dung thông không chấp nhận đơn vị cơ bản nào biến nó thành một trong những hệ thống sâu sắc của tư tưởng phương Tây. Đồng thời, nó xa lạ với truyền thống tư duy khoa học của ta, nên nó ít được các nhà vật lý chấp nhận. Tuy thế, sự từ chối chấp nhận đơn vị cơ bản thật ra là rất chung trong tư tưởng phương Đông, đặc biệt trong Phật giáo. Thật sự là sự tương phản giữa nhà Cơ bản và nhà Dung thông trong ngành vật lý hạt cũng song hành như sự tương phản giữa tư tưởng đang ngự trị tại phương Tây và phương Đông. Việc qui thiên nhiên về lại trên các đơn vị cơ sở chủ yếu là dựa trên cách tiếp cận tư tưởng của Hy lạp, nó sinh ra trong triết lý Hy Lạp với tính nhị nguyên của vật chất và tinh thần.Còn cái nhìn vũ trụ như là một mạng lưới đầy liên hệ, vắng bống đơn vị cơ sở, là đặc trưng của tư tưởng phương Đông. Người ta tìm thấy sự phát biểu rõ rệt nhất và luận giải rộng rãi nhất trong Đại thừa Phật giáo, và hồi tôi viết Đạo của vật lý, tôi đã đưa liên hệ mật thiết giữa vật lý Dung thông và triết lý đạo Phật lên đỉnh cao và chung quyết của chúng.
Tiêu chuẩn thứ tư cho mẫu hình tư duy mới mà tôi trình bày đến nay là nói tất cả mọi sự đều liên hệ chằng chịt lẫn nhau. Thiên nhiên được xem là một mạng lưới động gồm toàn liên hệ móc nối với nhau, nó chứa luôn cả người quan sát, như thành phần nội tại. Mỗi thành phần riêng biệt của mạng lưới này đều chỉ là những cấu trúc tương đối ổn định. Tương tự như thế, hiện tượng thiên nhiên được mô tả bằng một loạt những khái niệm, trong đó không thành phần nào là cơ bản hơn thành phần nào.
Khuôn khổ nhận thức mới này lập tức sinh ra nhiều câu hỏi. Nếu mỗi sự đều liên hệ đến mọi sự thì làm sao ta có hy vọng hiểu được sự vật? Vì rốt cuộc mọi hiện tượng thiên nhiên đều liên hệ lẫn nhau, muốn lý giải mỗi một sự, ta cần hiểu tất cả mọi sự khác, rõ ràng là điều không thể có. Điều làm cho lý thuyết Dung thông hay lý thuyết mạng lưới trở về một lý thuyết khoa học, là biến nó thành một phương cách nhận thức gần đúng. Nếu ta chấp nhận một sự nhận thức gần đúng về thiên nhiên, ta có thể mô tả một nhóm hiện tượng nhất định và bỏ qua một số hiện tượng khác ít quan trọng. Thế nên ta có thể giải thích nhiều hiện tượng bằng một ít hiện tượng khác và hệ quả là hiểu đó là những khía cạnh khác nhau của thiên nhiên trong cách gần đúng, không nhất thiết phải hiểu mọi sự tức khắc.
Quan niệm này là then chốt của tất cả mọi khoa học và đại diện tiêu chuẩn thứ năm của tôi: sự chuyển dịch từ mô tả chính xác qua mô tả gần đúng. Mẫu hình Cartesian được đặt trên lòng tin nơi tính chính xác của nhận thức khoa học, điều này đã được Descartes phát biểu. Trong mẫu hình mới, ta nhận định rằng tất cả mọi lý thuyết và phương thức khoa học đều hạn chế và chỉ là gần đúng. Khoa học không bao giờ cung cấp sự hiểu ngộ toàn triệt và dứt khoát cả. Nhà khoa học không làm việc với sự thực ( hiểu theo nghĩa của mối liên hệ chính xác giữa sự mô tả và hiện tượng được mô tả); họ chỉ làm việc với sự mô tả thực tại hạn chế và gần đúng. Phát biểu đẹp nhất cho tiêu chuẩn này mà tôi tìm thấy là của Louis Pasteur: “Khoa học tiến lên bằng các câu trả lời cho một loạt các câu hỏi ngày càng tinh tế, chúng đạt ngày càng sâu sắc đến cốt tủy của hiện tượng thiên nhiên
Một lần nữa, thật thú vị khi so sánh thái độ của khoa học hiện đại với thái độ của đạo học và ở đây, ta thấy một trong những khác biệt nổi bật giữa khoa học và đạo học. Nói chung đạo học không quan tâm đến nhận thức gần đúng. Họ quan tâm đến nhận thức tuyệt đối để hiểu về tính toàn thể của sự hiện hữu. Biết rõ mối liên hệ then chốt của mọi khía cạnh trong vũ trụ, họ thấy rằng muốn lý giải một thứ thì rốt cuộc phải chỉ ra nó liên hệ với mọi cái khác như thế nào. Vì điều đó không thể, thường nhà đạo học chỉ quả quyết rằng không sự vật riêng lẻ nào có thể giải thích trọn vẹn. Phần đông họ không lý giải sự vật mà coi trọng sự thực chứng trực tiếp, phi suy luận về tính nhất thể của vạn sự.
Cuối cùng, tiêu chuẩn cuối của tôi, không nói lên một quan sát mà là một biện hộ. Tôi tin rằng, trước sự đe dọa của thảm họa hạt nhân và sự tàn phá môi trường, con người chỉ có thể sống còn nếu ta biết thay đổi một cách triệt để phương pháp và giá trị làm nền tảng cho khoa học và kỹ thuật của chúng ta.Với tiêu chuẩn cuối này tôi muốn biện hộ cho việc dời chuyển từ thái độ ngự trị và kiểm soát thiên nhiên, trong đó có con người, đến một thái độ hợp tác và bất bạo động.
Khoa học kỹ thuật của chúng ta dựa trên lòng tin rằng hiểu được thiên nhiên tức là thiên nhiên bị đàn ông ngự trị. Tôi dùng chữ đàn ông ở đây có mục đích, vì tôi đang nói tới một mối liên hệ rất quan trọng giữa thế giới quan cơ học trong khoa học và hệ thống giá trị gia trưởng, của khuynh hướng nam tính muốn điều khiển mọi thứ. Trong lịch sử của khoa học và triết học phương Tây, mối liên hệ này thân thiện với Francis Bacon, vào thế kỷ 17, là người đã biện hộ cho phương pháp của khoa học thực nghiệm, bằng những từ say sưa hằn học. Thiên nhiên phải bị “săn lùng khi nó biến đổi”, Bacon viết, “bị trói vào việc phục dịch” và biến thành nô lệ”. Nó phải bị “chèn ép” và mục đích của nhà khoa học là “tra cho ra những bí ẩn của nó”. Hình ảnh kinh hoàng khi thiên nhiên phải bị tra tìm cho ra bằng các phương tiện cơ giới thật hết sức giống như sự tra tấn phụ nữ của tòa án vào thế kỷ 17, điều này rất quen thuộc với Bacon, ông là Tổng công tố viên của vua James I. ở đây, ta thấy mối liên hệ then chốt và đáng sợ giữa khoa học cơ giới và giá trị gia trưởng,nó cũng có tác động to lớn lên những phát triển sau đó của khoa học và kỹ thuật.
Trong thời kỳ trước thế kỷ 17, mục đích của khoa học là sự minh triết, sự tìm hiểu qui luật thiên nhiên, và hòa điệu với nó. Đến thế kỷ 17, thái độ sinh thái này đã biến thành ngược lại. Kể từ lúc Bacon xem mục đích khoa học là để chế ngự và điều khiển thiên nhiên, ngày nay cả khoa học lẫn kỹ thuật đều chủ yếu được dùng để phục vụ những mục đích nguy hiểm, tai hại và chống sinh thái.
Sự thay đổi thế giới quan đang diễn ra sẽ chứa đựng một sự thay đổi sâu sắc về giá trị; thực tế là sự thay đổi từ tâm can – từ ý định ngự trị và điều khiển thiên nhiên đến một thái độ hợp tác và bất bạo động. Thái độ như thế có tính sinh thái sâu xa và không hề đáng ngạc nhiên, đó cũng là thái độ đặc trưng của các truyền thống tâm linh.Các nhà minh triết ngày xưa của Trung quốc đã diễn tả điều này thật tuyệt vời: “Ai thuận theo lẽ trời, kẻ đó hoà mình trong dòng chảy của Đạo”.
Phê Bình về Đạo của Vật Lý
Bây giờ tôi xin nói đến các phê bình về Đạo của vật lý đã phát sinh trong những năm qua. Một câu hỏi hay đặt ra cho tôi là các đồng nghiệp trong cộng đồng vật lý chấp nhận thế nào các luận điểm chính của tôi?
Như đã tiên đoán, trước hết phần lớn các nhà vật lý đều rất nghi ngờ và thậm chí nhiều người cảm giác bị cuốn sách đe dọa. Những kẻ có cảm giác bị cuốn sách đe dọa đã phản ứng với sự bực dọc thông thường. Họ lăng mạ và thường phê bình hằn học không giấu giếm, trong sách báo hay trong thảo luận riêng, chúng chỉ phản ánh chính sự dao động của họ.
Những lý do mà Đạo của vật lý có khi bị cảm nhận như sự đe dọa nằm nơi sự hiểu sai phổ biến về tính chất đạo học. Trong cộng đồng khoa học, đạo học thường được nghĩ là một cái gì mơ hồ, ù mờ, tối tăm và hết sức phi khoa học. Khi thấy một lý thuyết đáng yêu của mình bị so sánh với hoạt động mơ hồ tối tăm đó, nhiều nhà vật lý cảm thấy bị đe dọa rất nhiều.
Cái nhìn sai lầm này về đạo học thật sự là rất đáng tiếc, vì nếu ta đọc những kinh sách cổ điển của các truyền thống đạo học, ta sẽ thấy những chứng thực tâm linh sâu xa không bao giờ được mô tả một cách mơ hồ tối tăm, mà ngược lại, nó luôn luôn liên hệ với sự sáng sủa. Hình tượng tiêu biểu mô tả thực chứng này có thể là dứt bỏ vô minh, cắt bỏ ảo giác, tâm thức sáng tỏ, nhận thức ánh sáng, hoàn toàn tỉnh giác – tất cả những cái đó nói về sự sáng tỏ. Thực chứng tâm linh lại đi ra khỏi mức độ suy luận trí thức, nên sự sáng tỏ là một thể loại khác, nhưng nó không có gì là mơ hồ hay tối tăm cả về các thực chứng này. Thực tế là từ giác ngộ mà chúng ta dùng để mô tả thời kỳ của Cartesi mới, thời kỳ tiếp cận khoa học ở châu Âu vào thế kỷ 18, là một trong những từ cổ nhất và được sử dụng rộng nhất để mô tả thực chứng tâm linh.
May mắn thay, ý niệm sai lầm về đạo học với những điều mơ hồ và thiếu rõ ràng đó ngày nay đã thay đổi. Vì một số lớn người bắt đầu quan tâm đến tư tưởng phương Đông và thiền định không còn được xem là đáng chê cười hay nghi ngại, đạo học đã được coi trọng hơn trước nhiều, ngay cả trong cộng đồng khoa học.
Hãy cho tôi điểm lại những phê bình chung nhất về Đạo của vật lý, những điều mà tôi luôn luôn phải đương đầu trong suốt mười lăm năm qua. Trước hết, phải nói rằng tôi rất vui mừng thấy trong bài phê bình mà tôi nhận được từ các đồng nghiệp vật lý, không có trong đó tìm thấy sơ suất gì trong các trình bày về vật lý hiện đại. Có vài người không nhất trí với tôi khi nhấn mạnh vài chỗ trong sự phát triển hiện nay, nhưng tới nay không ai thấy có sai lầm về nội dung chuyên môn trong Đạo của vật lý. Thế nên phần này đã đứng vững từ mười lăm năm qua.
Có hai luận cứ mà tôi nghe nhiều hơn cả về luận điểm cơ bản của mình. Luận cứ thứ nhất nói rằng thực tế khoa học của ngày hôm nay sẽ bị sự nghiên cứu của ngày mai phá bỏ. Lời phê bình đó đặt câu hỏi, thế thì một sự việc bị tạm thời như thế, là mô hình hay lý thuyết trong vật lý hiện đại có thể so sánh được với chứng nghiệm tâm linh, nó được xem là phi thời gian và vĩnh cửu? Phải chăng những sự thật của đạo học sẽ đứng vững hay ngã đổ với những lý thuyết của vật lý hiện đại?
Luận cứ này nghe rất thuyết phục, nhưng nó xuất phát từ sự hiểu sai về tính chất của nghiên cứu khoa học. Luận cứ này đúng ở chỗ không có sự thực tuyệt đối trong khoa học. Bất cứ điều gì nhà khoa học nói ra đều được thể hiện bởi những mô tả giới hạn và gần đúng, và sự mô tả gần đúng này sẽ được tốt hơn với mỗi sự phát triển từng phần từng bước.Thế nhưng, khi lý thuyết hay mô hình được cải tiến trong mỗi bước, thì nhận thức không phải bị thay đổi một cách tùy tiện. Mỗi thuyết mới đều liên hệ với thuyết trước nó một cách rõ ràng, mặc dù trong một cuộc cách mạng khoa học, điều này có thể bất định trong một thời gian dài. Thuyết mới không loại bỏ thuyết cũ một cách tuyệt đối, nó chỉ là sự tiếp cận tốt hơn. Thí dụ cơ học lượng tử không hề cho cơ học Newton là sai trái, nó chỉ cho thấy vật lý Newton có hạn chế.
Bây giờ ta cần chú thích thêm là khi một lý thuyết trong một lĩnh vực mới được đề ra, khi khoa học cũ được cải tiến bởi thuyết mới, không phải tất cả khái niệm của cái cũ bị từ bỏ. Và tôi tin, những khái niệm nào trong lý thuyết hiện nay của chúng ta không bị đào thải và tồn tại, đó là những khái niệm gắn chặt với các truyền thống đạo học.
Tôi có thể nói biến cố này trong vật lý Newton. Một trong những phát hiện then chốt của Newton, có thể là cái then chốt nhất và cái nổi tiếng nhất, đó là sự khám phá có một thứ bậc chung trong vũ trụ. Tương truyền rằng, Newton nhận thấy trong tia chớp của trực giác, khi một trái táo rơi từ cành xuống đất, thì lực đã lôi trái táo xuống đất cũng chính là lực lôi kéo các hành tinh quay quanh mặt trời. Đó là điểm xuất phát của thuyết Newton về lực trọng trường và cái nhìn này – có một thứ bậc nhất thể trong vũ trụ – cũng không hề bị cơ học lượng tử hay thuyết tương đối phê phán. Ngược lại, nó được xác nhận và thậm chí được đề cao trong những thuyết mới.
Tương tự như thế, tôi tin rằng tính nhất thể cơ bản và tính liên hệ phức tạp của vũ trụ cũng như nguyên lý động nội tại của những hiện tượng tự nhiên – hai luận điểm lớn của vật lý hiện đại – sẽ không bị các nghiên cứu tương lai làm thương tổn. Chúng có thể được phát biểu lại, và nhiều khái niệm ngày nay sẽ bị thay thế bởi một loạt những khái niệm của tương lai. Thế nhưng sự thay thế này sẽ xảy ra một cách thứ tự và những luận điểm căn bản mà tôi dùng trong sự so sánh với các truyền thống đạo học sẽ được tăng cường, chứ không bị suy giảm, tôi tin thế. Niềm tin này đã được xác định, không phải chỉ bởi những tiến bộ trong vật lý, mà bởi những phát triển nổi bật trong sinh vật học và tâm lý học.
Loại phê bình thứ hai mà tôi được nghe nhiều lần, lý luận rằng nhà vật lý và nhà đạo học nói về hai thế giới khac nhau. Nhà vật lý làm việc với một thực tại lượng tử, nó hầu như hoàn toàn vô nghĩa với thế giới bình thường, với hiện tượng hàng ngày, trong lúc đó, đạo học làm việc chính xác với hiện tượng vĩ mô, với sự vật của thế giới thông thường, nó hầu như không có gì liên quan đến thế giới lượng tử.
Trước hết, người ta cần thừa nhận rằng thực tại lượng tử không hề xa rời hiện tượng vĩ mô. Thí dụ, một trong những hiện tượng vật lý quan trọng của thế giới thông thường, tính cứng chắc của vật chất, là một hệ quả trực tiếp của hiệu ứng lượng tử nhất định. Vì thế ta cần sửa lại lý luận này và nói rằng nhà đạo học không chủ ý làm việc với thực tại lượng tử, còn nhà vật lý thì có.
Bây giờ, nói về khái niệm của hai thế giới khác nhau, cái nhìn của tôi là chỉ có một thế giới duy nhất – thế giới đáng kính sợ và bí ẩn này, nói như Carlos Castaneda – nhưng thực tại duy nhất này có nhiều khía cạnh, nhiều chiều hướng, nhiều mức độ. Nhà vật lý và nhà đạo học làm việc với khía cạnh khác nhau của thực tại. Nhà vật lý khai phá tầng mức của vật chất, nhà đạo học khai phá tầng mức của tâm linh. Điều mà hai loại khám phá có chung là, hai tầm mức đó đều nằm ngoài cảm quan thông thường.
Thế nên ta có nhà vật lý dò tìm trong vật chất với sự giúp sức của những thiết bị tinh xảo và nhà đạo học dò tìm trong ý thức với sự giúp sức của phương pháp thiền định tinh tế. Cả hai đều đạt tới tầng mức không thông thường của nhận thức, và tại tầng mức không thông thường này thì những cấu trúc và nguyên lý của sự tổ chức xem ra hết sức tương tự. Cách thế mà cấu trúc vi mô liên hệ với nhau đối với nhà vật lý, phản ánh đùng cách thế mà các cấu trúc vĩ mô liên hệ với nhau đối với nha đạo học. Và khi ta cô lập những cấu trúc vĩ mô đó trong cách thế nhận thức thông thường thì ta nhận ra chúng là vật thể thông thường, cách ly.
Một loại phê bình khác, hay được nêu lên, nhất trí là nhà vật lý và đạo học hướng đến những tầng mức khác nhau của thực tại. Tầng mức của đạo học cao hơn, là thực tại tâm linh, nó chứa đựng thực tại thấp hơn là hiện tượng vật lý, trong lúc thực tại vật lý không chứa tâm linh.
Trước hết tôi xin nói rằng, nói một thực tại này cao hơn hay thực tại kia thấp hơn, là một tàn dư của mẫu hình tư duy cũ – lại nhắc tới hình ảnh của tòa kiến trúc, chứ không nói về mạng lưới. Tuy nhiên tôi đồng ý là nhà vật lý không nói được gì về các tầng mức khác nhau, hay chiều hướng hay thực tại khác – đời sống, tinh thần, ý thức, tâm linh, vân vân. Đối với vật lý, không có gì để nói về những tầng mức của nó, nhưng khoa học thì rất có thể.
Tôi đã đến chỗ tin rằng mẫu hình mới cho khoa học, mà tôi đã đề xuất sáu tiêu chuẩn, đã tìm thấy sự phát biểu phù hợp nhất trong lý thuyết mới về đời sống, những hệ thống tự tổ chức vận hành, chúng đã xuất hiện trong ngành Cybernetics (điều khiển học) trong những thập niên qua. Ilya Priogine, Gregory Batetson, Humberto Maturana, và Francisco Varela là một số những người đầu tiên đóng góp cho thuyết này. Đó là một thuyết có thể áp dụng cho mỗi quá trình phát triển hữu cơ cá thể, hệ thống xã hội, và hệ thống sinh thái; và chúng hứa hẹn đưa đến một quan niệm thống nhất về đời sống, tinh thần, vật chất và tiến hóa. Cách tiếp cận này xác nhận sự tương đồng giữa vật lý và đạo học và cộng thêm nhiều cái khác nằm ngoài phạm vi vật lý: quan niệm về ý chí tự do, quan niệm về sống chết, tự tính của ý thức, vân vân. Đó là một sự hòa điệu sâu sắc giữa khái niệm, chúng được phát biểu trong một hệ thống tự tổ chức vận hành và các khái niệm liên hệ trong các truyền thống đạo học.
SỰ PHÁT TRIỂN HIỆN NAY VÀ KHẢ NĂNG CỦA TƯƠNG LAI
Điều vừa đề cập dẫn tôi nói về sự phát triển hiện nay và khả năng trong tương lai về sự phát biểu của những mẫu hình của khoa học mới. Từ khi viết Đạo của vật lý, tôi đã có những thay đổi quan trọng về nhận thức khi nói về vai trò của vật lý trong sự phát triển này. Lúc bắt đầu nghiên cứu sự chuyển dịch của mẫu hình trong nhiều loại hình khoa học, tôi nhận ra tất cả chúng đều xuất phát từ thế giới quan cơ học của vật lý Newton, và tôi thấy vật lý mới là mô hình lý tưởng cho những khái niệm và cách tiếp cận mới trong loại hình khác. Trong thời gian qua, tôi đã nhận định rằng một quan điểm như thế có nghĩa là tầng mức của vật lý là cơ bản hơn mọi thứ khác. Ngày nay tôi xem nền vật lý mới, đặc biệt là thuyết Dung thông (Bootstrap) chỉ là trường hợp đặc biệt của một phương cách tiếp cận, khi ta làm việc với hệ thống.
Vì thế, sự hoàn chỉnh các luận điểm mà tôi nêu ra trong Đạo của vật lý không phải nặng trong các phát hiện tiếp theo về sự tương đồng giữa vật lý và đạo học, mà chính là sự mở rộng trong các ngành khoa học khác. Thật ra điều này đã được thực hiện, và tôi xin lướt qua vài tác phẩm đó. Về mối tương đồng giữa đạo học và khoa học tư duy, tác giả tốt nhất mà tôi biết là Francisco Varela, một trong những người đi đầu của thuyết tự tổ chức vận hành. Verala với Evan Thompson, đang viết một cuốn sách về sự tham dự của lý thuyết tâm thức Phật giáo trong nhận thức khoa học. Trong thời gian qua, cuốn sách của ông The Tree of Knowledge (cây nhận thức), đồng tác giả với Humberto Maturana, là suối nguồn quan trọng của ý niệm này.
Trong tâm lý học, nhiều tác phẩm đã được hoàn thành để khai phá chiều kích tâm linh của tâm lý học và phép chữa bệnh tâm lý. Có một ngành đặc biệt, tâm lý chung của con người, chỉ cống hiến cho mục đích này. Stanilav Grof, Ken Wilber, Frances Vaughan và nhiều người khác đã xuất bản sách vở về đề tài này, nhiều người trong đó bắt đầu với Đạo của vật lý, và trở về lại với Carl Gustav Jung.
Trong ngành khoa học xã hội, phương hướng tâm linh xuất hiện với tác phẩm của E.F. Schumacher, Buddhist Economics, lần đầu xuất bản vào cuối những năm sáu mươi và từ đó được tìm hiểu trong nhiều nhóm khác nhau và trong các hệ thống mới, cả lý thuyết lẫn thực hành. Liên hệ chặt chẽ với phong trào này là một dạng chính sách sinh thái mới, được gọi là chính sách Green (xanh), đó là nơi mà tôi xem là biểu hiện chính trị của sự biến dịch của mẫu hình văn hóa mới. Khía cạnh tâm linh của các phong trào chính trị này đã được thảo luận bởi bà C-harlene Spretnak trong tác phẩm The Spiritual Dimension of Green Politics (Chiều kích tâm linh của Chính sách Xanh).
Cuối cùng, tôi xin thêm vài chữ để nói dến quan niệm của tôi về đạo học phương Đông, nó cũng có vài thay đổi trong mười lăm năm qua. Trước hết, đối với tôi lúc nào cũng rõ, và tôi đã nói trong Đạo của vật lý, rằng sự tương đồng theo cách tôi thấy giữa vật lý và đạo học phương Đông cũng có thể rút ra từ các truyền thống đạo học phương Tây. Cuốn sách tới đây của tôi, Belonging to the Universe (Thuộc về vũ trụ), đồng tác giả với Brother David Steindl-Rast, thảo luận về một vài sự tương đồng đó. Hơn nữa, tôi không còn nghĩ có thể đưa truyền thống đạo học phương Đông vào phương Tây mà không thay đổi chúng trong nhiều điểm quan trọng để thích nghi với văn hóa của chúng ta. Niềm tin này được củng cố bằng sự gặp gỡ với nhiều vị đạo sư tâm linh phương Đông, họ không hiểu được vài khía cạnh chủ yếu của mẫu hình mới đang phát sinh ở phương Tây.
Mặt khác, tôi cũng tin là truyền thống tâm linh của chúng ta cũng sẽ phải chịu nhiều thay đổi quyết liệt để hoà điệu với giá trị của mẫu hình mới. Tâm linh với hình ảnh mới về thực tại mà tôi trình bày ở đây có lẽ phải là một tinh thần sinh thái, hướng đến địa cầu, từ bỏ tinh thần gia trưởng. Loại tâm linh mới này đã được phát triển trong nhiều nhóm và phong trào, bên trong và bên ngoài Nhà thờ. Một thí dụ là nhóm tâm linh sáng tạo được hình thành bởi Matthew Fox và đồng nghiệp của ông tại Holy Names College, Oakland, California.
Đó là vài sự phát triển đang xảy ra trong tiến trình hình hành mẫu hình mới. Sự đóng góp của riêng tôi trong mười lăm năm qua đã giúp được sự ra đời của những mẫu hình mới và hệ quả xã hội của chúng trong The Turning Point (Bước ngoặt) và tinh lọc thêm sự tổng hợp đó bằng cách hợp tác với một nhóm đồng nghiệp xuất sắc mà cùng với họ tôi đã tìm thấy và phát triển một trung tâm tư tưởng sinh thái, Elmwood Institute (PO Box 5765, Berkeley, CA 94705 USA).
Qua những năm tháng đó, tôi đã gặp nhiều con người đặc biệt, với họ tôi có những thành tựu lớn. Nhiều tình bạn lâu năm cũng đã xuất phát từ những lần gặp gỡ đó. Lúc tôi quyết định viết Đạo của vật lý cách đây hơn hai mươi năm, tôi đã có một bước đi đầy rủi ro nghề nghiệp, với nhiều hoang mang lo lắng cũng như e ngại về mặt kinh tế và tôi hoàn toàn cô đơn khi trải qua giai đoạn đó. Nhiều bè bạn và đồng nghiệp của tôi cũng phải chịu như thế khi họ đi những bước tương tự trong lĩnh vực của họ. Ngày nay tất cả chúng tôi thấy mạnh mẽ hơn nhiều. Chúng tôi được đưa vào trong một hệ thống mà tôi gọi là văn hóa tiên tiến – một phong trào đa dạng tiêu biểu cho nhiều mặt của một cách nhìn mới về thực tại, từng bước kết tinh lại để thành một lực lượng mạnh mẽ cho sự chuyển hóa xã hội.
HẾT