Phúc Tâm Đường

https://phuctamduong.com


THIÊN GIA DIỆU PHƯƠNG: Các bệnh vần X

.

.

“ Thiên gia diệu phương” có thể hiểu là “Những bài thuốc hay của đông đảo thầy thuốc” là một cuốn sách giới thiệu nhiều bài thuốc (cổ phương, tân phương, dân gian, gia truyền) dùng chữa những bệnh thường gặp nhưng chữa chạy không dễ dàng…Do đó, ngoài khái niệm và thuật ngữ của y dược học cổ truyền còn có khái niệm và thuật ngữ của y học hiện đại và cả 2 giới y dược cổ truyền và hiện đại đều có thể tìm thấy ở đây những kinh nghiệm bổ ích về y dược. GS Hoàng Bảo Châu

219. XƠ CỨNG CỘT BÊN TỦY MẠN TÍNH TIẾN TRIỂN

- Biện chứng đông y: Can thận khuy hư, tinh huyết không đủ, gân cốt không được nuôi dưỡng.

- Cách trị: Tư âm thanh nhiệt, bổ ích can thận.

- Đơn thuốc: Phi bộ thang.

- Công thức:

 Quy bản                  12g  Thục địa                  30g
 Tri mẫu                    12g  Hoàng bá                12g
 Trần bì                     12g  Bạch thược             25g
 Ngưu tất                  10g  Sao đỗ trọng            18g
 Xuyên đoạn              18g  Thỏ ti tử                  18g
 Đương quy              12g  Vân linh                  12g
 Bạch truật                12g  Trích cam thảo        10g

Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.

- Hiệu quả lâm sàng: Vương XX, nam, 27 tuổi, đầu xuân 1974 phát bệnh. Đầu tiên cảm thấy bỗng nhiên không điều khiển được chân tay, hoạt động vô lực, tưởng rằng làm việc quá mệt mỏi nên không để ý, không điều trị gì hết. Sau đó càng ngày càng nặng, tay không cầm được đồ vật, chân không đứng được xuống đất. Đã dùng nhiều loại thuốc như vitamin B1, B12, galantamin, nhưng không khỏi. Sau đó một thầy thuốc đông y chẩn đoán nhầm là phong thấp, cho uống hơn 30 thang thuốc, bệnh tình trái lại càng thêm nặng, ǎn uống ít, dần dần đi đến chỗ nằm liệt giường. Lại chẩn đoán là xơ cứng cột bên tủy mạn tính tiến triển. Khám thấy mạch trầm tế vô lực, nhất là 2 bên mạch xích, chất lưỡi đỏ, rêu ít, lưỡi mỏng. Bệnh nhân kể trước đây có tay chân mềm nhũn mà không thấy đau, xuất tinh sớm và liệt dương. Hiện tim phổi gan lách, máu lắng đều bình thường. Chứng này thuộc về can thận khuy tổn, tinh huyết không nuôi dưỡng được gân cốt kinh mạch, gọi là "cốt nuy bệnh", phải trị bằng tư âm thanh nhiệt, bổ ích can thận. Cho uống liền 30 thang "Phi bộ thang" mỗi thang sắc 2 lần, chia ra uống vào 2 buổi sáng tối. Khám lại: Tay đã cầm được bát đũa, chống nạng đi lại được, nhưng thần sắc mệt mỏi, sợ lạnh, lại dùng nguyên phương, thêm Lộc giác giao 12g, Hoàng kỳ 30g, uống hơn 20 thang nữa, tứ chi đã hồi phục hoạt động bình thường.

- Bàn luận: "Phi bộ thang" là từ hai bài thuốc "Hổ tiềm hoàn" của "Đan khê tâm pháp" và "Lộc giác giao hoàn" của "Y học chính truyền" kết hợp với kinh nghiệm lâm sàng gia giảm mà xây dựng nên.

 

123. XƠ GAN CỔ CHƯỚNG (1)

- Biện chứng đông y: Thấp nhiệt đình trệ.

- Cách trị: Ôn trung kiện tì, thanh nhiệt táo thấp.

- Đơn thuốc: Đan khê tiêu ôn trung hoàn.

- Công thức:

 Bạch truật                  60g  Phục linh                  30g
 Trần bì                       30g  Khương bán hạ         30g
 Sinh cam thảo            10g  Tiêu thần khúc           30g
 Sinh hương phụ         45g  Khổ sâm                   15g
 Hoàng liên sao           15g  Cương châm xa         45g
 (tẩm dấm sao đỏ, tán nhỏ)

Các vị thuốc trên sau khi tán thành bột mịn, lấy dấm và nước (mỗi thứ một nửa) trộn thành hồ Thần khúc rồi làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 70-80 hoàn, uống với nước thuốc sau: Bạch truật 18g, Trần bì 3g, Sinh khương 1 lát, sắc uống. Đối với người bệnh hư nặng, thì bỏ vị Hoàng liên, thêm Hậu phác 15g.

- Hiệu quả lâm sàng: Từ X X, nam, 58 tuổi. Bệnh nhân vốn nghiện rượu, ǎn ít bụng trướng. Gần đây lượng nước tiêu giảm, bụng cǎng như trống. Xét nghiệm chức nǎng gan thấy tỉ lệ albumin/globulin đảo ngược, chẩn đoán là xơ gan cổ chướng, dùng thuốc đông y và tân dược để chữa nhưng kết quả không rõ rệt. Do người bệnh vốn nghiện rượu nên gan lách đều bị thương tổn, thể hiện sắc mặt xạm đen, mũi đỏ, không đói, tiểu tiện ít, miệng hơi đắng bụng chướng đầy, lưỡi hơi đỏ, rêu đục bẩn, mạch huyền sác. Đó là do thấp nhiệt giao trở, gan lách tổn thương dẫn đến tắc nghẽn đường dẫn mà thành cổ chướng. Cho uống Đan khê tiêu ôn trung hoàn, trước hết đem thuốc hoàn sắc thành thang để uống 10 thang rồi mới dùng thuốc hoàn 500g. Sau khi uống thuốc, bụng chướng giảm dần, tiểu tiện trong và dài, các chứng chuyển biến tốt rõ rệt. Lại cho uống 1000 hoàn, uống xong hết cổ chướng, ǎn ngon hơn, kiểm tra chức nǎng gan, tỷ lệ albumin/globulin trở lại bình thường, đã có thể tham gia công tác như thường. Theo dõi vài tháng thấy sức khoẻ vẫn tốt.

- Bàn luận: Đan khê tiêu ôn trung hoàn do Chu Đan Khuê sáng chế. Dùng bài thuốc này chữa xơ gan, đặc biệt là với bệnh nhân có tỉ lệ albumin/globulin đảo ngược, dù là có cổ chướng hay không đều thu được hiệu quả tốt. Thông thường uống từ 180g đến 210 g là có thể khiến nước tiêu trong và nhiều bệnh nặng thì uống 500g đã được như thế. Một số bệnh nhân sau khi đã hết các triệu chứng bệnh chức nǎng gan bình thường thì ngừng thuốc, nhưng rồi do không điều độ, làm việc quá sức thi lại tái phát. khi đó lại dùng bài thuốc trên vẫn có hiệu quả tốt. Những bệnh nhân loại này được chữa khỏi đã 20 nǎm mà vẫn khoẻ mạnh. Vị Cương châm sa trong bài thuốc còn có tên là Châm sa hay Cương sa.

 

124. XƠ GAN CỔ CHƯỚNG (2)

- Biện chứng đông y: Can uất khí trệ huyết ứ.

- Cách trị: Lý khí, hóa ứ, thanh nhiệt, thông phủ.

- Đơn thuốc: Lý khí hóa ứ tiêu thũng thang.

- Công thức:

 Cù mạch                 30g  Phòng kỳ                  9g
 Tiêu mục                  5g  Đình lịch tử               5g
 Chế quân                 9g  Nga truật                  6g
 Chỉ xác                    5g  Thất tiêu tán            15g
 Đào nhân                 5g  Đan sâm                 15g
 Xuyên phác              6g  

Sắc uống, mỗi ngày 1 thang. Với bệnh nhân thể hư, thì bỏ Nga truật, thêm Mã tiên thảo 15g. Nếu có tình trạng xuất huyết đường tiêu hóa thì thêm Đại, Tiểu kế mỗi thứ 30g.

- Hiệu quả lâm sàng: Phan XX, nữ, 40 tuổi, nông dân. Tháng 10-1962 tới khám lần đầu. Người bệnh bụng chướng to như cái trống, gân xanh nổi hằn, vòng bụng đo 86 cm, gõ đục di chuyển rõ, dạ dày cǎng đầy, lườn nặng khó thở, ǎn không tiêu, miệng khát thích uống nước, da thịt nóng hầm hập, miệng đắng khó thở, ǎn không tiêu, miệng khát thích uống nước, da thịt nóng hầm hập, miệng đắng đầu váng, ít ngủ, yếu ớt. Mắt hơi vàng, nước tiểu vàng ít, đại tiện bí kết, chân phù có ấn lõm, mạch trầm huyền, lưỡi rêu trắng, rìa có vết tím. Đây là do gan mất thǎng bằng, khí huyết uất trệ, kinh lạc ứ tắc, thủy khí ứ đọng. Chữa trị phải hóa ứ, lợi thủy, thanh nhiệt, thông phủ. Cho dùng bài lý khí hóa ứ tiêu thũng thang. Uống 5 thang, phù thũng giảm đi, nước tiểu nhiều lên. Lại dùng bài thuốc ấy hơi gia giảm một chút, cho uống tiếp 5 thang. Sau khi uống xong, bụng khỏi chướng, gân xanh trên bụng bớt đi, ǎn tǎng lên, thế bệnh có nhiều chuyển biến khá. Lại dùng Lục quân thang thêm Đan sâm, Mạch nha, Sơn tra, Đương qui để điều lý, uống xen kẽ Vị linh thang gia vị. Cứ như thế liên tục hơn một tháng, cổ chướng rút hết, tinh thần chuyển tốt. Khuyên bệnh nhân kiêng ǎn muối 4 tháng. Sau đó đã có thể làm được một số việc trong nhà. Theo dõi hơn 10 nǎm, tình hình vẫn tốt, bệnh không tái phát.

 

125. XƠ GAN CỔ CHƯỚNG (3)

- Biện chứng đông y: Can uất khí trệ, tì vị hư tổn.

- Cách trị: Hành khí lợi thủy, thư can giải uất.

- Đơn thuốc: Thanh oa tán, mẫu kê sâm kỳ thang.

- Công thức:
     1.Thanh oa tán:

 Ếch                1 con  Sa nhân              6g

Mổ bụng ếch nhét sa nhân vào rồi để ở chỗ râm mát cho khô, sau tán thành bột mịn để dùng dần. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 6g, ǎn với cháo đường.

     2. Mẫu kê sâm kỳ thang:

 Gà mái đẻ           1 con  Hoàng kỳ               30g
 Đảng sâm              30g Sa nhân                  30g

Gà đem vặt lông, mổ bụng, bỏ ruột, giữ lại gan, tim, gói các vị thuốc bằng vải gạc bỏ vào bụng gà, hầm nhỏ lửa cho rừ, bỏ xương và bã. ǎn lúc đói, mỗi ngày 2 lần (một thang thuốc trên có thể dùng cho 2-3 ngày). Hàng ngày dùng đồng thời Thanh oa tán và Mẫu kê sâm kỳ thang.

- Hiệu quả lâm sàng: Khương XX, nam, 47 tuổi, nông dân. Người bệnh tiêu hóa không tốt, bụng chướng, nặng nhất là về ban đêm, đã 7-8 nǎm, khám ở một bệnh viện chẩn đoán là viêm gan mạn tính, xơ gan giai đoạn đầu. 3 tháng gần đây bệnh nặng lên, ǎn uống giảm sút, tiêu hóa kém, bụng chướng tǎng. Toàn thân yếu sức, gầy còm, bụng to dần như cái trống, nước giải ít, màu vàng. Mạch trầm, hoãn. Đã rút nước ở bụng 2 lần, mỗi lần 1000ml. Chữa phải hành khí lợi thủy, thư can giải uất. Cho uống phối hợp Thanh oa tán với Mẫu kê sâm kỳ thang. Sau khi dùng thuốc 100 ngày, cổ chướng rút hết, các chứng dần tiến triển, đã có thể làm các công việc chân tay thông thường.

 

126. XƠ GAN CỔ CHƯỚNG (4)

- Biện chứng đông y: Khí trệ huyết ứ, thủy thấp nội đình.

- Cách trị: Hoại huyết hóa ứ, ích khí kiện tì, lợi thủy tiêu thũng.

- Đơn thuốc: Hoạt can thang.

- Công thức:

 Kim tiền thảo            30g  Xa tiền tử                 30g
 Phục linh bì              30g  (Pháo) miết giáp       10g
 Trạch lan                  10g  Đại phúc bì              12g
 Đan sâm                  15g  Trạch tả                   15g
 Hoàng kỳ                 15g  

Sắc uống, mỗi ngày 1 thang. Người tì hư thấp nặng thì thêm Thương truật 10g, Hậu phác 6g, Ý mễ 15g; người bị gan uất khí trệ rõ ràng thì bỏ vị Hoàng kỳ, thêm Tứ nghịch tán. Nếu ứ tắc ở "lạc", đau nhiều bên sườn, gan lách đều to và cứng thì thêm Thổ nguyên, Nga truật, Tam lǎng, Hồng hoa; nếu can âm bất túc, trong máu có nhiệt thì thêm Thủy ngưu giác, Sinh địa, Hạn liên thảo, Đan bì; nếu thấp nhiệt đều thịnh thì thêm Long đảm thảo, Bán chi liên, Khổ sâm.

- Hiệu quả lâm sàng: Trong mười nǎm trở lại đây, ứng dụng Hoạt can thang làm bài thuốc chính chữa cho 50 trường hợp bệnh nhân bị cơ gan cổ chướng, hiệu quả thu được khá mĩ mãn: hiệu quả rõ rệt chiếm 70%, có hiệu quả chiếm 20%, không hiệu quả chiếm 10%.

 

127. XƠ GAN CỔ CHƯỚNG (5)

- Biện chứng đông y: Thấp nhiệt ủng trệ.

- Cách trị: Thanh nhiệt, hóa thấp, trục ứ, tiêu thũng.

- Đơn thuốc: Hóa thấp trục ứ tiêu thũng thang.

- Công thức:

 Miết giáp               30g  Cù mạch                30g
 Xa tiền tử              20g  Tam lǎng                 6g
 Nga truật                6g  Phục linh               12g
 Trạch tả                18g  Xuyên giáp              6g
 Xích thược            10g  Đào nhân                9g
 Tiểu kế                 30g  Phúc bì                 12g
 Hồ lô               0,5 quả  

Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.

- Hiệu quả lâm sàng: Phan XX, nam 45 tuổi, nông sân, Khám lần đầu ngày 18-5-1963. Trong một tháng lại đây bụng mỗi ngày một to ra như cái trống, bệnh viện chẩn đoán là xơ gan cổ chướng kèm tì cang. Gan lách đều to 6cm. Sắc mặt vàng võ, mặt có nếp nhǎn, lợi xuất huyết, ǎn không được, nước tiểu ít, đỏ, mạch huyền sác: chất lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn. Bệnh này thuộc chứng thấp nhiệt ủng trệ, nước tụ, khí trệ, huyết ứ, cổ chướng. Chữa phải thanh nhiệt, hóa thấp, trục ứ, tiêu thũng. Cho dùng bài hóa thấp trục ứ tiêu thũng thang. Sau khi uống 5 thang nữa, đồng thời pha 30g Đại Tiểu kế nấu thành nước thay trà uống nhiều lần. Uống xong bụng nước rút hết, ǎn uống dần tǎng lên, lách co lại. Tiếp theo cho thêm một số vị kiện tì dưỡng huyết như Đảng sâm, Hoàng kỳ, Đương qui v.v... vào bài thuốc trên, uống liền trong hơn 4 tháng. Thời gian uống kiêng muối. Lách bệnh nhân trở lại như bình thường, các chứng bệnh tiêu tan, đã có thể làm một số công việc đồng áng. Theo dõi người bệnh 15 nǎm, không thấy tái phát.

 

121. XƠ GAN DO MỠ

- Biện chứng đông y: Can tì dương hư, đờm thấp ứ tắc.

- Cách trị: Sơ can hóa ứ, kiện tì hóa thấp.

- Đơn thuốc: Tam niên vị linh thang gia vị.

- Công thức:

 Sơn trà sống            120g  Sơn trà chín                 120g
 Mạch nha sao            21g  Thanh bì                      9g
 Trần bì                        9g  Khương hậu phác      12g
 Trạch tả                    15g  Quế chi non                 9g
 Hương phụ sao dấm  15g  Cam thảo                    6g

Sắc uống, mỗi ngày 1 thang. Người có chứng đương cang xơ cứng động mạch thì thêm Hà thủ ô 30g, người khí trệ trướng nặng thì thêm Lai phục tử sống 30g.

- Hiệu quả lâm sàng: Vương XX, nam, 45 tuổi, cán bộ. Người bệnh thân thể béo như phù, bụng to như cái chum, da thịt sờ như bông, đầu váng mắt hoa, sức yếu, lười nói, sắc mặt trắng bệch, mắt màu đen xám, chất lưỡi non bệu, có điểm ứ huyết mà xám xanh, rêu lưỡi trắng, dày mà cáu, tiếng nói hơi yếu. 5-6 nǎm trước bị đau sườn bụng trên, tức ngực, hơi thở ngắn, rêu trắng dày cáu, ǎn ít, mệt nhọc, tim đập, sợ rét. Qua kiểm tra ở một bệnh viện, chẩn đoán là viêm gan mạn tính kèm xơ cứng động mạch. Đã từng nằm viện điều trị nhiều lần, thể trọng tǎng, gan to xuống dưới bờ sườn 4 khoát ngón tay, huyết áp 140/100mmHg. Về sau vẫn tiếp tục điều trị, nhưng bệnh vẫn nặng lên. Lại đi khám ở bệnh viện khác, chẩn đoán là xơ gan do mỡ kèm bệnh tǎng huyết áp. Chứng này là do can ứ tì thấp, dương khí bất túc, mỡ đờm ứ kết mà thành bệnh. Cách chữa phải sơ can kiện tì, hóa thấp tiêu mỡ, khử đờm, trợ dương. Dùng bài thuốc Tam tiên vị linh thang gia vị. Sau ba tháng, trung tiện nhiều, thối, nước tiểu nhiều, vẩn đục, đi ngoài phân như tương, bụng bớt sôi, bớt trướng, hết rêu lưỡi, lượng ǎn tǎng, người cảm thấy thoái mái nhẹ nhõm. Còn các chứng khác vẫn như trước. Dùng tiếp 6 thang bài thuốc trên, tǎng lượng Sơn tra lên đến 180g, thêm Phụ tử phiến 9g, uống xong người bệnh bớt béo bệu, bụng nhỏ bớt nhiều, tứ chi và bụng, lưng trở nên ấm áp, tiểu tiện nhiều, đại tiện thông thoát, hết lưỡi nhợt, hết rêu, mạch trầm hoãn. Đó là do tiêu đạo thái quá, sợ làm tổn thương trung khí, nên dùng phép phù chính khử tà. Cho bài thuốc gồm: Đảng sâm 15g, Bạch truật 18g, Vân phục linh 30g, Trần bì 9g, Bán hạ 9g, Hoàng kỳ 21g, Đương qui 9g, Thǎng ma 3g, Sài hồ 9g, Nhục quế 3g (uống với nước thuốc), Bạch thược 15g, Tiêu sơn tra 90g, Hương phụ 15g, Đan sâm 15g, Cam thảo 3g, Uống liền 3 thang, tinh thần phấn chấn, cử động mạnh mẽ, bớt váng đầu, hết tim đập thở gấp, huyết áp 120/80mmHg, da cơ khỏe khoắn, ngủ tốt, lưỡi hồng nhạt, hết điểm ứ huyết mạch phù hoãn. Nên "kiện tì lợi thấp, ôn hóa đờm ẩm, giải cơ tiêu mỡ". Dùng bài Tam tiên vị linh thang gia vị, bỏ Thần khúc, Mạch nha, Thanh bì, thêm Ma hoàng 3g, Khương bì 15g sắc nước âm dương uống cho ra mồ hôi. Uống hết 2 thang chưa ra mồ hôi, sau khi uống thang thứ 3, cho uống thêm 1 bát to Thông bạch thang nóng, mồ hôi ra nhiều như dầu, dính, tanh, nặng mùi, ướt hết chǎn đệm, trung tiện ầm ầm. Hôm sau ngủ dậy, người nhẹ nhõm vô cùng, béo bệu giảm đi hơn một nửa, bụng ngực hết đầy, nước tiểu nhiều, vẩn đục. Sờ gan chỉ còn dưới bờ sườn nửa khoát ngón tay, cơn đói khát ǎn tǎng lên, sắc mặt trở nên nhuận bóng, lưỡi đỏ hết rêu, mạch hoãn nhược, ngoài mệt mỏi ra các chứng bệnh đều hết. Lại dùng Sài thược lục quân tử thang, có thêm Hoàng kỳ, Đương qui, Đan sâm, Hương phụ, Quế chi, cho uống mấy thang để củng cố về sau. Theo dõi nhiều nǎm sau khi khỏi bệnh, thấy vẫn công tác bình thường, sức khỏe tốt.

- Bàn luận: Đa số bệnh mạn tính cố tật thường chữa sai, dùng phương dược, sai xơ gan do mỡ cũng do lúc đầu chữa không đúng nên bệnh kéo dài, chữa khó khǎn. Dùng bài Tam tiên vị linh thang gia vị, gia giảm theo tình hình cụ thể của người bệnh đã chữa khỏi 2 ca xơ gan do mỡ, 4 ca béo bệu.

 

128. XƠ GAN DO TĂNG ÁP LỰC TĨNH MẠCH CỬA (kèm tì cang)

- Biện chứng đông y: huyết nội trở.

- Cách trị: Hoạt huyết hóa ứ nhuyễn kiên tán kết.

- Đơn thuốc: Nhuyễn kiên súc tì thang.

- Công thức:

 Đương qui          15g  Xuyên khung         9g
 Tam lǎng (sao)      9g  Nga truật              9g
 Đào nhân (sao)     9g  Thổ nguyên          9g
 Đan sâm            30g  Sài hồ                12g
 Trần bì               12g  

Sắc uống, mỗi ngày một thang.

- Hiệu quả lâm sàng: Thôi XX, nam 41 tuổi, công nhân. Bệnh nhân từ nǎm 1973 phát hiện thấy gan lách bị sưng to, chức nǎng gan khác thường. Nǎm 1975 chẩn đoán là viêm gan mạn tính. Từ nǎm 1977 đến nay, lách ngày càng một to, đi khám ở nhiều bệnh viện đều chẩn đoán là xơ gan do tǎng áp lực tĩnh mạch cửa, cường lách, bệnh nhân được khuyên là mổ cắt lách, nhưng bệnh nhân không đồng ý. Ngày 23-2-1979 đến viện điều trị. Khi vào viện, hai bên sườn bệnh nhân đau nhói hoặc đau âm ỉ rất khó chịu, lợi bị chảy máu ít nhiều, còn ǎn uống được. Kiểm tra thấy: sức khoẻ nói chung còn tốt, gan to dưới bờ sườn 1,5 cm, lách to dưới bờ sườn 3cm, hơi cứng, ấn đau. Lưỡi đỏ tím, có điểm huyết ứ, rêu mỏng, rài lưỡi ám đen, mạch tế, sáp. Xét nghiệm thấy: chức nǎng gan bình thường, bạch cầu 3800/mm3, tiểu cầu 76000/mm3. Kiểm tra siêu âm thấy lách dày 5 cm ở dưới bờ sườn 3cm, bờ trên của gan nằm ở gian sườn thứ 6 (7cm), dưới bờ sườn 2 cm. Uống thuốc barit để chụp phim cho thấy tĩnh mạch thực quản ở đoạn dưới giãn nhẹ.

Chứng này là do huyết ứ nội trở gây ra. Điều trị phải loại huyết hóa ứ, nhuyễn kiên tán kết. Cho dùng bài Nhuyễn kiên súc tì thang, mỗi thang sắc tới còn 300ml, uống một lần vào buổi tối lúc đói. Hai tuanà sau kiểm tra chức nǎng gan, transaminase glutamic tǎng cao đến 36 đơn vị (theo phương pháp cải tiến), bèn ngừng bài thuốc trên, cho dùng bài Kiện can sinh hóa thang: Đảng sâm 15g, Bạch truật (sao) 9-12g, Sơn dược (sống) 30g, Đương qui, Thanh bì, Chỉ xác (sao) mỗi thứ 12g, Đan sâm 15-30g, Bạch dược (sống) 18g, Long đởm thảo, Xuyên liên mỗi thứ 6-9g, Sài hồ 9g, mỗi ngày sắc uống một thang cùng thuốc tây y bảo vệ gan. Sau nửa tháng, transaminase glutamic trở lại bình thường. Tiếp tục uống Nhuyễn kiên súc tì thang, uống thêm Súc tì tán (ngũ linh chi 30g, Nga truật, Tam lǎng mỗi thứ 60g, Xuyên sơn giáp 90g, Sài hồ 45g, cùng tán bột mịn, mỗi lần uống 6g, ngày uống hai lần sáng tối. Một tháng sau, gan lách đều thu nhỏ. Nằm viện 96 ngày, khi ra viện bệnh nhân tự thấy khỏi hết bệnh, lưỡi hơi tím nhạt, sáu mạch huyễn hữu lực, chức nǎng gan bình thường, bạch cầu 5300/m3, tiểu cầu 95.000/mm3. Kiểm tra bằng siêu âm: lách dày 3,5cm. Chụp phim sau khi uống barit thấy hết giãn tĩnh mạch, thực quản. Ra viện tiếp tục điều trị. Sau một tháng khám lại, tiểu cầu lại tǎng đến 113.000/mm3. Theo dõi trong 4 tháng, tình trạng tốt, khỏi bệnh.

- Bàn luận: Xơ gan do tǎng áp lực tĩnh mạch cửa, lách sưng to, cường lách thuộc phạm trù tích tụ trong đông y. Tích tụ chia ra chứng tích và chứng tụ. Chứng tích phần lớn thuộc phần huyết hóa ứ, nhuyễn kiên tán kết. Đơn thuốc Súc tì thang và Súc tì tán được cấu tạo theo phép này, ứng dụng vào lâm sàng thu được hiệu quả mĩ mãn. Trong thời gian điều trị, liều lượng thuốc phải từ ít đến nhiều, tǎng dần liều lượng sao cho không tổn thương chính khí (ý nói tình trạng chung và các chỉ tiêu chức nǎng gan, đôi khi phối hợp uống với Súc tì tán để nâng cao hiệu quả điều trị, rút ngắn thời gian chữa bệnh. Nhưng phải chú ý định kỳ kiểm tra chức nǎng gan và xét nghiệm máu, nước tiểu để nắm vững những thay đổi. Nếu bệnh nhên tự cảm thấy chứng bệnh rõ rệt, chức nǎng gan bị tổn thương nghiêm trọng thì phải giảm liều hoặc ngừng hẳn thuốc, chuyên sang dùng thuốc phù chính của đông y hoặc thuốc bảo vệ gan của tây y để điểu chỉnh cũng có thể dùng bài thuốc Kiện can sinh hóa thang để chữa, đợi chức nǎng gan chuyển biến tốt mới tiếp tục công trị cho đến khi khỏi hẳn.

 

120. XƠ GAN GIAI ĐOẠN SỚM

- Biện chứng đông y: Can kinh uất nhiệt, thương âm hóa hỏa.

- Cách trị: Dưỡng âm nhu can, sơ can hòa lạc.

- Đơn thuốc: Nhất quán tiễn gia vị.

- Công thức:

 Sinh địa hoàng          15g  (Nam) Sa sâm           12g
 (Thốn) mạch đông       9g  Qui thân                     9g
 Cam kỉ tử                  9g  Xuyên luyện tử            6g
 Tử đan sâm               6g  Quảng uất kim            9g
 Sinh mạch nha         12g  Sinh miết giáp           12g
 Phấn trư linh            12g  Xuyên liên                   3g

Sắc uống mỗi ngày 1 thang.

- Hiệu quả lâm sàng: Bệnh nhân XX, nam, 42 tuổi, cán bộ. Bệnh nhân kể đã 6 nǎm có gan to, vùng gan đau với bệnh viêm gan không rõ rệt. Có bộ mặt đau gan mạn tính, trên mặt có các u mạch hình sao, củng mạc không nhiễm vàng, vùng lá gan và bụng mềm, bờ gan ở dưới bờ sườn 2 khoát ngón tay, thể chất trung bình, mặt gan nhẵn không gồ ghề, chưa sờ thấy lách, chưa có cổ trướng. Xét nghiệm chức nǎng gan chưa thấy biến đổi rõ rệt, tỉ số albumin, globulin là 1,3/1. Chẩn đoán lâm sàng là xơ gan giai đoạn sớm.

Hội chẩn đông y: thấy vùng gan đau, ǎn không ngon, bụng đầy, miệng khô, buồn nôn, trong lòng bứt rứt không yên, chân phù nhẹ, tiểu tiện vàng đỏ, rêu lưỡi vàng, chất lưỡi đỏ ít tân dịch, mạch tế huyền hơi sác. Trị bằng phép dưỡng âm nhu can, sơ can hoạt lạc. Cho dùng bài Nhất quán tiễn gia vị. Tùy bệnh chứng mà gia giảm, trước sau dùng tất cả 35 thang, đồng thời dùng phối hợp các thuốc tây bảo vệ gan, sau khi dùng thuốc thì cảm thấy các chứng cơ bản đều hết, sắc diện từ chỗ gụ xám trở thành có thần sắc, gan mềm đi, điện đi protein bình thường. Sau khi ra viện 2 nǎm, hỏi lại tình trạng cơ thể vẫn giữ được ổn định, bệnh chưa phát triển lại.

 

210. XUẤT HUYẾT DƯỚI MÀNG NHỆN

- Biện chứng đông y: huyết nội trở, uất lâu sinh nhiệt, nhiệt làm tổn thương kinh mạch, huyết không đi đúng đường tràn ra mà thành bệnh.

- Cách trị: Hành khí hoạt huyết, khử ứ sinh tân.

- Đơn thuốc: Huyết phủ trục ứ thang.

- Công thức:

 Đương quy              9g  Sinh địa hoàng       15g
 Đào nhân               15g  Hồng hoa                9g
 Chỉ thực                  9g  Xích thược            15g
 Sài hồ                     6g  Cam thảo                3g
 Cát cánh              4,5g  Xuyên khung         4,5g
 Ngưu tất                 9g  

Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.

- Hiệu quả lâm sàng: Triệu XX, nữ, 11 tuổi. Vào viện ngày 10-11-1973. Giữa trưa hôm đó bệnh nhi muốn ra ngoài chơi, đột nhiên hôn mê ngã lǎn ra đất, nôn, vội vàng đưa đến bệnh viện cấp cứu. Khám thấy: thân nhiệt 36,7 độ C, mạch đập 98 lần/phút, huyết áp 110/60 mmHg, bạch cầu 32.400/mm3, đang trong trạng thái hôn mê, sắc mặt trắng bệch, phản xạ với ánh sáng chậm, cổ cứng, chân tay lạnh, tim phổi gan lách không có gì khác thường. Cho tiêm penixillin, gentamyxin và truyền dịch. Ngày thứ ba sau khi vào viện, bệnh tình vẫn chưa đỡ, vẫn ở trạng thái nửa hôn mê, thân nhiệt 38,3 độ C, đồng tử bên phải to hơn bên trái, phản xạ với ánh sáng chậm, rãnh mũi mép phía bên phải nông, cổ cứng rõ rệt, Kerning và Brudzinski đều dương tính, phía bên phải rõ rệt. Sau khi vào viện 4 ngày, tiến hành chọc ống sống, dịch não tủy có máu, phần trên trong, có màu vàng nhạt, chẩn đoán lâm sàng là xuất huyết dưới màng nhện. Đông y nhận định rằng chủ yếu là ứ huyết nội trở, tràn ra thành bệnh, cần phải hành khí hoạt huyết, khử ứ sinh tân. Sau khi khám cho dùng "Huyết phủ trục ứ thang". Dùng thêm ít thuốc trấn tĩnh Aminazin, Luminal. Uống được 10 thang giảm nhiều đau đầu, các triệu chứng kích thích màng não đã hết, tinh thần khá lên. Xét nghiệm lại dịch não tủy, các chỉ tiêu đều trở về bình thường. Tiếp tục chǎm sóc thì tình trạng cháu bé ổn định, bệnh khỏi. Ngày 17-12-1973 ra viện.

- Bàn luận: Bài thuốc "Huyết phủ trục ứ thang" nguyên lấy từ "Y lâm cải thác", có tác dụng hoạt huyết hóa ứ, chủ trị ứ huyết ngưng trở, kiêm can khí uất trệ, có các triệu chứng như đau ngực, đau mạng sườn, đau đầu mất ngủ, tim đập hồi hộp, hay tức giận, trong y vǎn đã ghi lại không ít người dùng bài thuốc này để trị đau thắt ngực, các di chứng sau chấn động sọ não, đều có kết quả tốt. Chúng tôi điều trị xuất huyết dưới màng nhện, đã quan sát trên lâm sàng nhiều nǎm, thấy kết quả khả quan. Từ thực tế đó nhận thấy rằng nếu bệnh ở giai đoạn đầu, thoạt tiên nên dùng "Tê giác địa hoàng thang gia giảm" để lương huyết cầm máu, chờ bệnh tình ổn định, lại cho dùng "Huyết phủ trục ứ thang", thì kết quả sẽ lý tưởng.

Nguồn tin: Viện thông tin thư viện y học trung ương

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây