Phúc Tâm Đường

https://phuctamduong.com


HUYẾT GIÁC

.

.

HUYẾT GIÁC còn gọi là cây xó nhà, cây dứa dại, cây giáng ông. Tên khoa học Pleomele cochinchinensis Merr. (Dracaena loureiri Gagnep.); thuộc họ hành tỏi Liliaceae. Vị thuốc huyết giác là chất gỗ màu đỏ, do một loại sâu hay nấm gây ra trên gỗ cây huyết giác già cỗi mục nát. Theo Danh mục thuốc thiết yếu thuốc đông y và thuốc từ dược liệu lần VI thuộc nhóm XVII - Hoạt huyết khứ ứ.


Huyết giác là một loại cây nhỏ, cao chừng 1-1,5 m, có thể tới 2-3 m, sống lâu năm. Thân phân thành nhiều nhánh. Cây nhỏ có đường kính chừng 1,6-2 cm, cây to có đường kính tới 20-25 cm. Lá hình lưỡi kiếm, trung bình dài 25-80 cm, rộng 3-4 cm tới 6-7 cm, cứng, màu xanh tươi, mọc cách, không có cuống. Lá rụng để lại trên thân một sẹo. Thường chỉ còn một bó lá tụ tập trên ngọn. Cụm hoa mọc thành chùm dài tới 1 m, đường kính phía cuống tới 1,5-2 cm trên có lá nhỏ, dài 15 cm, rộng 2 cm, phân cành nhỏ dài tới 30 cm. Hoa tụ từng 2-4 hoa gần nhau. Hoa nhỏ, đường kính 7-8 mm, màu lục vàng nhạt. Quả mọng hình cầu, đường kính chừng 1 cm. Khi khô có màu đen, hạt hình cầu, đường kính 6-7 cm.

Cây huyết giác thường mọc hoang ở các vùng núi đá xanh (Quảng Ninh, Nam Định, Hà Nam, Hà Tây, Hòa Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh). Phải những cây già, đã chết và đổ nát mới có gỗ. Những cây đã thành huyết giác có màu đỏ hoặc có nhiều đám màu đỏ, mùi vị không có gì đặc biệt. Trong những chỗ màu đỏ, có cảm tưởng như do một loài sâu nào đục khoét gây ra. Chặt về phơi khô là được. Huyết giác hiện nay được thu mua để dùng trong nước và xuất sang Trung Quốc, nhưng cho đến nay chúng tôi vẫn chưa tìm được Đông y Trung Quốc dùng làm gì, với tên là gì. Tên huyết giác chỉ là tên các nhà Đông y Việt Nam thường gọi mà thôi.

Huyết giác còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi nhân dân (chưa thấy được ghi trong một tài liệu nào), chữa những trường hợp ứ huyết, bị thương, máu tím bầm không lưu thông. Dùng cho cả nam và nữ. Đối với nữ, còn dùng khi kinh nguyệt bế. Liều dùng: Ngày 10-20 g dưới dạng thuốc sắc, ngâm rượu uống và xoa.

( GS Đỗ Tất Lợi, Sức Khỏe & Đời Sống)
TÀI LIỆU THAM KHẢO THÊM:

Thành phần hoá học: chưa có tài liệu nghiên cứu. Năm 1961 nghiên cứu sơ bộ Đặng thị Mai An, không thấy có antoxyan, không thấy có caomin, chất nhựa.

Chỉ biết trong huyết giác có chất nhựa màu đỏ tan trong cồn, aceton, acid, không tan trong ête, clorofoc và benzen. Với kiềm, màu đỏ vàng lúc đầu chuyển sang màu da cam ( Bộ môn Dược liệu và thực vật Trường đại học Dược Hà nội, 1961)

Tác dụng dược lý: Sơ bộ nghiên cứu tác dụng giãn mạch trên tai thỏ, thấy chất tan trong rượu với nồng độ 1/270 có tác dụng giãn mạch ( Báo cáo tốt nghiệp của Đặng thị Mai An, Hà nội, 1961)

Công dụng: Huyết giác là một vị thuốc dùng trong nhân dân dùng chữa những trường hợp bị thương, máu tím bầm không lưu thông. Dùng cho cả nam nữ. Đối với nữ còn dùng khi kinh nguyệt bế.

Liều dùng: ngày 10 - 20g dưới dạng thuốc sắc, ngâm rượu uống và xoa.

( nguồn internet)


Nguồn tin: Tổng hợp từ internet

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây