Phúc Tâm Đường

https://phuctamduong.com


Nạn kinh từ 51 đến 60

Danh y Biển Thước

Danh y Biển Thước

Điều 51 Nan viết : “Có những bệnh (mà người bệnh) muốn được ấm, (cũng có những bệnh mà người bệnh) muốn được lạnh, muốn được thấy người khác, không muốn thấy người khác, (các trường hợp trên) đều không giống nhau. Như vậy, bệnh ở tại tạng phủ nào ?”.
Thực vậy : “Những bệnh (mà người bệnh) muốn được lạnh và cũng muốn thấy người khác, đó là bệnh tại phủ. Những bệnh (mà người bệnh) muốn được ấm và không muốn thấy người khác, đó là bệnh ở tạng”.
“Dựa vào đâu để nói được như vậy ?”.
“Phủ thuộc Dương, bệnh thuộc Dương thì người bệnh muốn được lạnh và cũng muốn nhìn thấy người khác. Tạng thuộc Âm, bệnh thuộc Âm thì người bệnh muốn được ấm và chỉ muốn đóng kín cửa lại để ở một mình, ghét nghe thấy tiếng người khác. Đó là (những biểu hiện) để ta biết được bệnh của tạng hay của phủ vậy”.

Điều 52 Nan viết : “Cái căn bản của sự phát bệnh của tạng và phủ có đồng nhau không ?”.
Thực vậy : “Không đồng nhau”.
“Không đồng nhau như thế nào ?”.
Thực vậy : “Tạng bệnh thì dừng lại 1 nơi không di chuyển, chỗ bệnh không thay đổi chỗ. Phủ bệnh thì dường như là chạy đi nhiều hướng, khi lên, khi xuống, khi chạy đi nơi này khác, chỗ ở vô thường. Cho nên, dựa vào đó để ta biết cái căn bản của tạng của phủ bất đồng”.

Điều 53 Nan viết : “Kinh nói : Bệnh do “Thất truyền” thì chết, bệnh do “gián tạng” thì sống. Đó là nói gì ?”.
Thực vậy : “”thất truyền” có nghĩa là truyền cho cái “sở thắng”. “Gián tạng” có nghĩa là truyền cho con mình”.
“Nói thế nghĩa là thế nào ?”.
“Giả sử Tâm bệnh truyền lại cho Phế; Phế truyền lại cho Can; Can truyền lại cho Tỳ; Tỳ truyền lại cho Thận; Thận truyền lại cho Tâm. Đến đây thì một tạng không thể chịu truyền bệnh đến 2 lần, cho nên gọi là “thất truyền”, (truyền đến lần thứ 7) thì chết.
Giả sử Tâm truyền bệnh cho Tỳ; Tỳ truyền cho Phế; Phế truyền cho Thận; Thận truyền cho Can; Can truyền cho Tâm. Đó là lối “mẹ con truyền nhau”, truyền đến cuối rồi lại bắt đầu trở lại, như chiếc vòng ngọc tròn không đầu mối. Cho nên gọi nó là “sinh : sống”.

Điều 54 Nan viết : “Tạng bệnh thì khó trị, phủ bệnh lại dễ trị, tại sao thế ?”.
Thực vậy : “Tạng bệnh sở dĩ khó trị là vì nó truyền cho cái “sở thắng”, phủ bệnh sở dĩ dễ trị là vì nó truyền cho con nó, giống với phép “thất truyền” và “gián tạng”.

Điều 55 Nan viết : “Bệnh có tích, có tụ, làm thế nào để phân biệt được ?”.
Thực vậy : “Tích thuộc về Âm khí. Tụ thuộc về Dương khí, Do đó mà Âm khí thì trầm mà phục, Dương khí thì phủ mà động. Khí tích lại gọi tên là Tích, khí tụ lại gọi tên là Tụ. Cho nên, Tích do ngũ tạng sinh ra, Tụ do lục phủ thành ra. Tích thuộc Âm khí, khi nó mới bắt đầu phát đều có nơi chỗ rõ ràng, sự đau nhức không rời chỗ bệnh, nó lên hay xuống đều có chỗ chấm dứt và bắt đầu, 2 bên tả hữu đều có chỗ tận cùng của nó. Tụ thuộc Dương khí, khi nó bắt đầu phát đều không có nơi gốc rễ, nó lên xuống đều không có nơi dừng lại, chỗ đau nhức không nơi nhất định. Ta gọi đó là Tụ. Vì thế ta dùng những mô tả trên để phân biệt bệnh về Tích và Tụ vậy”.

Điều 56 Nan viết : “Tích của ngũ tạng đều có tên không riêng mình không ? Nó đắc (bệnh) vào tháng nào, ngày nào ?”.
Thực vậy : “Tích của Can tên gọi là Phì khí, nằm ở dưới hông sườn bên trái, hình như cái ly úp xuống, có đầu có chân, bệnh lâu không lành sẽ làm cho người bệnh phát ra chứng ho nghịch, sốt rét năm này qua năm khác không khỏi. Nó đắc (bệnh) vào Mậu Kỷ nhật của mùa qúy hạ”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Phế bệnh truyền cho Can, Can phải truyền cho Tỳ, gặp lúc mùa qúy hạ Tỳ đang Vượng, mà vượng thì Tỳ sẽ không thọ tà. Thế là Can muốn trả trở lại cho Phế, Phế  không chịu nhận, vì thế mà lưu kết thành chứng Tích. Do đó chúng ta biết được chứng Phì khí đắc (bệnh) vào Mậu Kỷ nhật của mùa qúy hạ.
Tích của Tâm tên gọi là Phục lương, khỏi lên từ ở phía trên rún to như cánh tay, lên trên đến dưới Tâm,  bệnh lâu ngày không khỏi, khiến cho người bệnh bị phiền Tâm. Nó đắc (bệnh) vào Canh Tân nhật của mùa Thu.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Thận bệnh truyền cho Tâm, Tâm phải truyền cho Phế, gặp lúc mùa thu Phế  đang vượng, mà vượng thì phế sẽ không thọ tà. Thế là Tâm muốn trả trở lại cho Thận. Thận không chịu nhận, vì thế mà lưu kết thành chứng Tích. Do đó chúng ta biết được chứng phục lương đắc (bệnh) vào Canh Tân nhật của mùa thu.
Tích của Tỳ tên gọi là Bĩ khí, nằm ở vùng vị hoãn, to như cái mân, bệnh lâu không dứt sẽ khiến cho bệnh nhân tứ chi không co duỗi được, phát chứng hoàng đản, ăn uống không bồi bổ được cho cơ nhục và bì phu. Nó đắc (bệnh) vào Nhâm Qúy nhật của mùa đông”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Can bệnh truyền cho Tỳ, Tỳ phải truyền cho Thận, gặp lúc mùa đông Thận đang vượng, mà vượng thì Thận sẽ không thọ tà. Thế là Tỳ muốn trả trở lại cho Can. Can không chịu nhận, vì thế mà lưu kết thành chứng Tích. Do đó chúng ta biết được chứng Bĩ khí đắc (bệnh) vào Nhâm Qúy nhật của mùa đông”.
Tích của Phế tên gọi là Tức bôn, nằm ở dưới hông sườn phía hữu, nằm úp lại to như cái ly, bệnh lâu ngày không dứt sẽ khiến cho bệnh nhân hay bị ớn ớn hàn nhiệt, ho suyễn phát ra phế ủng. Nó đắc (bệnh) vào Giáp Ất nhật mùa xuân”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Tâm bệnh truyền cho phế, phế phải truyền cho Can, gặp lúc mùa xuân Can đang vượng, mà vượng thì Can sẽ không thọ tà. Thế là phế muốn trả trở lại cho Tâm. Tâm không chịu nhận, vì thế mà lưu kết thành chứng Tích. Do đó chúng ta biết được chứng Tức bôn đắc bệnh vào Giáp Ất nhật của mùa xuân”.
Tích của Thận tên gọi là Bôn độn, nó phát ra ở vùng thiếu phúc, lên trên đến dưới Tâm, giống như hình trạng của con “đôn : heo con” hoặc lên hoặc xuống không biết lúc nào, bệnh lâu ngày không dứt sẽ khiến cho bệnh nhân bị suyễn nghịch, cốt nuy, bị thiếu khíq. Nó đắc bệnh vào Bính Đinh nhật của mùa hạ’.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Tỳ bệnh truyền cho Thận, Thận phải truyền cho Tâm, gặp lúc mùa hạ Tâm đang vượng, mà vượng thì Tâm sẽ không thọ tà. Thế là Thận muốn trả trở lại cho Tỳ, Tỳ không chịu nhận vì thế lưu kết thành chứng Tích. Do đó chúng ta biết được chứng Bôn độn đắc bệnh vào Bính Đinh nhật của mùa hạ.
Đây là những phép chẩn quan trọng của ngũ tích”.

Điều 57 Nan viết : “Tiết gồm có bao nhiêu loại ? Có tên gọi hay không ?”.
Thực vậy : “Tiết gồm có 5 loại, tên gọi đều khác nhau, có Vị tiết, có Tỳ tiết, có Đại trường tiết, có Tiểu trường tiết, có Đại hà tiết, còn gọi là Hậu trọng.
Vị tiết là chứng mà ăn uống không hóa, phân vàng.
Tỳ tiết là chứng mà bụng bị trướng, mãn, khi đi tiêu thì chảy ra, ăn vào xong tức thì ói nghịch trở ra.
Đại trường tiết là chứng mà ăn vừa xong thì bụng như bị quẫn bách như bắt buộc phải tiêu ra ngay, đại tiện ra phân sắc trắng, sôi ruột, đau như cắt.
Tiểu trường tiết là chứng mà tiểu tiện thông, đại tiện ra máu mủ, đau vùng thiếu phúc.
Đại hà tiết là chứng mà lý cấp hậu trọng, nhiều lần đi đến cầu tiêu nhưng không thể đại tiện được, giữa dương vật bị đau. Đây là phép lớn để hiểu về các chứng tiết.

Điều 58 Nan viết : “Thương hàn có mấy loại ? Mạch của nó có biến không ?”.
Thực vậy : “Thương  hàn có 5 loại, đó là có trúng phong, có thương hàn, có thấp ôn, có nhiệt bệnh, có ôn bệnh, mỗi loại có sự biểu hiện hiểm nguy của nó khác nhau.
Mạch trúng phong thì Dương phù mà hoạt, Âm nhu mà nhược, Mạch thấp ôn thì Dương nhu mà nhược, Âm tiểu mà cấp. Mạch thương hàn thì Âm Dương đều thịnh mà khẩn sắc. Mạch nhiệt bệnh thì Âm Dương đều phù, phù mà lại hoạt, trầm mà lại tán sắc. Mạch ôn bệnh thì vận hành ở các kinh mà không biết động ở kinh nào, đều phải dựa vào tình hình của kinh đó trong lúc chẩn để dựa vào đó mà trị”.
“Bệnh thương hàn, có trường hợp cho ra mồ hôi thì khỏi mà cho xổ lại chết; có trường hợp cho ra mồ hôi thì chết mà cho xổ lại khỏi, tại sao vậy ?”.
Thực vậy : “Khi Dương hư Âm thịnh mà cho ra mồ hôi thì khỏi, cho xổ thì chết; khi Dương thịnh Âm hư mà cho ra mồ hôi thì chết, cho xổ lại khỏi”.
“Bệnh về hàn nhiệt, sự biểu hiện của nó như thế nào ?”.
Thực vậy : “Bì phu hàn nhiệt làm cho bì phu không thể tiếp xúc được với chiếu nằm, lông tóc bị khô, mũi khô, không được cho ra mồ hôi; cơ nhục hàn nhiệt làm cho bì phu bị thống, môi lưỡi bị khô, không được cho ra mồ hôi; cốt hàn nhiệt bệnh làm cho người bệnh không được an tĩnh, mồ hôi ra không dứt, gốc răng khô và đau nhức”.

Điều 59 Nan viết : “Bệnh Thuộc cuồng và điên phải phân biệt như thế nào ?”.
Thực vậy : “Bệnh cuồng lúc bắt đầu làm cho bệnh nhân ít chịu những8, không đói tự cho mình là bậc hiền ở trên cao, tự phân biệt mình là người trí, tự cho mình là tôn qúy, ngông láo, cười ngây, ham ca nhạc, làm những việc liều lĩnh.
Bệnh điên tật lúc bắt đầu làm cho bệnh nhân ý không vui, ngó thẳng, té xuống cứng như xác chết, tất cả 3 bộ mạch Âm Dương đều thịnh”.
 

Điều 60 Nan viết : “bệnh ở đầu và Tâm có Quyết thống, có Chân thống, nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy : “Mạch của Thủ tam Dương thọ phong hàn, núp lại, lưu lại không đi, gọi là Quyết đầu thống, nó nhập để liên hệ với não, gọi là Chân đầu thống. Khí của ngũ tạng can thiệp vào nhau gọi là Quyết Tâm thống. Khi nào sự đau nhức nhiều chỉ ở Tâm, tay chân lạnh, gọi là Chân Tâm thống. Khi mà bị chứng Chân Tâm thống thì buổi sáng phát bệnh, buổi chiều chết, buổi chiều phát, buổi sáng chết”.
 

Tác giả bài viết: Thiếu Phúc sưu tầm

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây