THIÊN 19 : NGỌC CƠ CHÂN TÀNG LUẬN
- Thứ bảy - 09/11/2013 12:17
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Hoàng đế nội kinh tố vấn
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch mùa Xuân tức là Can mạch, thuộc Đông phương mộc, muôn vật bắt đầu sinh ra từ đó, cho nên mạch khí hiện ra nhuyễn, nhược, khinh, hư mà hoạt, ngay thẳng mà dài, nên gọi là Huyền. Nếu mạch tượng trái thế, sẽ mắc bệnh [2].
Hoàng Đế hỏi:
Thế nào là trái? [3]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch khí lúc lại thực mà cường, là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, mạch khí lúc lại không thực mà “vì”, là bất cập, bệnh sẽ phát ở bên trong [4]:
Hoàng Đế hỏi:
Mạch mùa Xuân, thái quá và bất cập, phát ra chứng hậu thế nào? [5]
Kỳ Bá thưarằng:
Thái quá thời khiến người hay quên, choáng váng chóng mặt, và đau ở đầu. Nếu là bất cập thời đau ở hung xuất sang lưng, xuống cả hai bên sườn, tức đầy khó chịu [6].
Hoàng Đế hỏi:
Mạch mùa Hạ như Câu... Thế nào gọi là Câu? [7]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch mùa Hạ, tức là mạch của Tâm, thuộc Nam phương Hỏa, muôn vật nhờ đó để thịnh trưởng. Cho nên mạch khílúc lại thịnh lúc đi suy, nên mới gọi là Câu. Nếu mạch tượng trái thế, sẽ mắc bệnh [8]
Hoàng Đế hỏi:
Thế nào là trái? [9]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch khí lúc lại thịnh, lúc đi cũng thịnh, là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, mạch khí lúc lại không thịnh, lúc đi lại thịnh là bất cập, bệnh sẽ phát ở bên trong [10].
Hoàng Đế hỏi:
Mạch mùa Hạ thái quá và bất cập, phát ra chứng hậu thế nào? [11]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thái quá thời khiến người mình nóùng và đau ở ngoài da, hoặc sinh chứng lỏ lói, bất cập thời khiến người Tâm phiền, ở bộ phận trên thời phát chứng ho và nhổ, ở bộ phận dưới thời phát chứng khí tiết [12]:
Hoàng Đế hỏi:
Mạch mùa Thu như phù... Thế nào gọi là phù? [13]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch mùa Thu tức là mạch của Phế, thuộc Tây phương Kim, muôn vật nhờ đó tới thời kỳ “thâu thành”. Cho nên mạch khí lúc lại, khinh hư mà phù, lúc lại thời cấp, lúc đi thời tán, nên gọi là Phù. Nếu mạch tượng trái thế, sẽ mắc bệnh [14].
Hoàng Đế hỏi:
Thế nào là trái? [15]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch khí lúc lại như mao, ở giữa kiên, hai bên hư, là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, mạch khí lúc lại như mao mà vi, là bất cập, bệnh sẽ phát ở bên trong [16].
Hoàng Đế hỏi:
Mạch mùa Thu, thái quá và bất cập, chứng hậu phát ra thế nào? [17]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thái quá thời khiến người khí nghịch, lưng đau và bực tức khó chịu, bất cập thời khiến người suyễn, hơi thở thiếu khí mà ho, ở bên trên đôi khi thấy có máu, có khi khí hạ nghịch, là rên kêu ầm ỹ[18].
Hoàng Đế hỏi:
Mạch mùa Đông như Doanh... Thế nào gọi là Doanh? (Ở yên lặng, chìm xuống, tức là Thạch) [19].
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch mùa Đông, tức là mạch của Thận, thuộc Bắc phương thủy. Muôn vật nhờ đó mà bế tàng, cho nên mạch khí lúc lại trầm mà bác (bựt mạnh lên), nên gọi là Doanh. Nếu mạch tượng trái thế, sẽ mắc bệnh [20].
Hoàng Đế hỏi:
Thế nào là trái? [21]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch khí lúc lại như vụt vào đá (đàn thạch) là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, đến lúc đi lại chậm rãi như đếm, là bất cập [22].
Hoàng Đế hỏi:
Mạch mùa Đông thái quá và bất cập, chúng hậu phát ra thế nào? [23]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thái quá thời khiến người trễ nải, đường xương sống đau, thiếu khí, không muốn nóùi, bất cập thời khiến người trong lòng bào hao như đối, phía dưới chỗ xương sườn cụt giá lạnh, trong xương sống đau, Thiếu phúc đầu, tiểu tiện đổi sắc [24].
Hoàng Đế hỏi:
Theo thứ tự của bốn mùa các tàng đều có sự thuận nghịch khác nhau... Còn Tỳ, thời chủ về gì? [25]
Kỳ Bá thưa rằng:
Tỳ mạch thuộc Thổ, nóù là Cô tàng (đứng riêng một mình) để thấp nhuần ra bốn bên [26].
Hoàng Đế hỏi:
Nếu vậy thời sự “thiện” hay “ác” của Tỳ có thể biết được chăng? [27]
Kỳ Bá thưa rằng:
Cái thiện không thể thấy (1) chỉ cái ác có thể thấy [28].
Hoàng Đế hỏi:
Thấy cái ác như thế nào? [29]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch khí lúc lại, như nước chảy dồn, là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, nếu chỉ như chim mổ, lúc có lúc ngừng là bất cập, bệnh sẽ phát ở trong [30].
Hoàng Đế hỏi:
Mạch của tỳ, thái quá và bất cập, chứng hậu phát ra thế nào? [31]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thái quá thời khiến người tứ chi không cử động được, bất cập thời khiến người chín khiếu không thông, gọi là Trùng cường (2) [32].
Năm Tàng, thụ khí ở cái “sở sinh”, lại truyền cho cái “sở bất thắng” (đã chua nghĩa ở trên). Khí ký túc ở cái nơi “sở sinh”, mà bị chết ở cái nơi “sở bất thắng”, bấy giờ mới chết. Đó là vì khí nghịch hành (đi ngược) nên mới chết [33].
Can thụ bệnh khí ở tâm, truyền đi đến Tỳ, khí ấy ký túc ở Thận, đến Phế thời chết. [34]. Tâm thụ bệnh khí ở Tỳ, truyền đi đến Phế, khí ấy ký túc ở Can đến Thận thời chết [35]. Tỳ thụ bệnh khí ở Phết, truyền đi đến Thận, khí ấy ký túc ở Tâm đến Can thởi chết [36]. Phế thụ bệnh khí ở Thận, truyền đi đến Can, khí ấy ký túc ở Tỳ, đến Tâm thời chết [37]. Thận thụ bệnh khí ở Can, truyền đi đến Tâm, khí ấy ký túc ở Phế, đến Tỳ thời chết… [38]. Đó đều là nghịch [39]. Suốt một ngày một đêm, chia làm 5 Tàng... Để đoán biết sống hay chết, sớm hay muộn... [40]
Hoàng Đế nóùi rằng:
Năm Tàng cùng thông nhau, truyền đều có thứ tự, năm Tàng có bệnh, thời đều truyền tới cái “sở thắng”. nếu không điều trị, theo phép, hoặc 3 tháng, hoặc 6 tháng, hoặc 3 ngày, hoặc 6 ngày... Truyền khắp năm Tàng thời sẽ chết. Đó là cái thứ tự thuận truyền cho cái “sở thắng” [41].
Cho nên nóùi rằng: phân biệt được dương tàng sẽ biết được bệnh nóù từ đâu lại, phân biệt được âm tàng, sẽ biết được cái thời kỳ sống hay chết [42].
***
Phong, là một thứ đứng đầu của trăm bệnh. Giờ phong hàn phạm vào người, khiến người hào mao đều đứng thắng, bì phu bị ứ trệ lại mà thành chứng nhiệt (sốt nóùng). Gặp trường hợp đó, nên dùng phép làm phát hãn đề phong tà tiết ra ngoài [43].
Hoặc tý, bất nhân (ngoài da tê dại cấu không biết đau), sưng đau... Gặp trường hợp đó, nên dùg nước nóùng để chườm mặt, hoặc dùng lửa cứu, hoặc dùng châm thích cho tiết bỏ huyết độc [44].
Nếu không chữa bệnh tàsẽ phạm vào Phế thành chứng Phế tý, gây nên ho, khí nghịch lên trên [45].
Nếu không chữa. Phế sẽ truyền mà lấn sang Can, thành chứng Can tý, một tên là Quyết sẽ đau ở sườn và Thổ. Gặp bệnh đó nên dùng phép “án”và thích [46].
Nếu không chữa Can sẽ truyền sang Tỳ, thành chứng Tỳ phong gây nên bệnh Đau (hỏa đản) trong bụng nóng Tâm phiền, da vàng. Gặp bệnh đó, nên dùng phép “án” dùng thuốc hoặc dùng phép tắm [47].
Nếu không chữa tỳ thấy nhiệt sẽ truyền sang Thận, thành chứng Sán Hà, trong Thiếu phục thấy nhiệt nóùng nảy và đau, tiểu ra trắng như nước gạo. Lại một Tên là Cổ. Gặp bệnh đó nên dùng phép “án” và thuốc uống [48].
Nếu không chữa, Thận sẽ truyền sang Tâm, thành chứng gân mạch co rút, mà đau. Gọi là Khiết. Gặp bệnh đó nên dùng phép cứu, hoặc thuốc uống. Nếu không chữa, trong vòng mười ngày sẽ chết [49].
Thận hoặc truyền lên Tâm, Tâm liền quay trở lại mà truyền lên Phế, phát chứng hàn nhiệt. Theo phép, ba năm sẽ chết. Đó là thứ tự của bệnh (1) [50].
Nhưng nếu là bệnh “thốt phát” bỗng dưng phát ra rất chóng), không cần phải theo phép tương truyền để điều trị [51].
Hoặc có khi truyền hóa không theo thứ tự, như ưu, khủng, bi, hỷ, nóä...Vì nóù truyền không có thứ tự, nên thường gây nên bệnh lớn [52].
Tỉ như hỷ quá thời Tâm hư, Thận khí sẽ thừa cơ mà lấn, nóä [53]. Quá thời Can hư, Phế khí sẽ thừa cơ mà lấn [54]. Tư quá thời Tỳ hư, Can khí sẽ thừa cơ mà lấn [55]: Khủng quá thời Thận hư, Tỳ khí sẽ thừa cơ mà lấn [56]. Ưu quá thời Phế hư, Tâm khí thừa cơ mà lấn...
Như một Tàng hư mà bị lấn, thời sẽ truyền qua cả 5 Tàng. Cho nên bệnh có 5 thứ, mà 5 tàng lần biến...Vậy năm lần 5, sẽ thành 25. Vậy sự truyền hóa của 5 Tàng đó, cũng đều là lấn cái “sở thắng” vậy [58].
Đại cốt (tức xương tay, xương đầu) khô đét, đại nhục (tức hai mông) rúm lại, trong hung khí nghẽn, hơi thở khó khăn, mỗi khi thở phải so vai rụt cổ... Chỉ 6 tháng sẽ chết [59]. Thấy mạch của Chân tàng hiện ra, mới có thể hẹn đúng ngày nào. (Như bệnh ở Tâm, sẽ tính đến ngày Nhâm qúi thì chết v.v... Tức là ngày tương khắc) [60].
Đại cốt khô đét, đại nhục rúm lại, trong hung khí nghẽn, hơi thở khó khăn. Đau ở trong rút lên vai và cổ. Chỉ trong một tháng sẽ chết. [61]. Thấy mạch của chân tàng hiện ra, mới có thể hạn đúng ngày nào (tức ngày Canh, Tân) [62].
Đại cốt khô đét, hai nhục rúm lại, trong hung khí nghẽn, đau ở vai rút lên vai cổ, mình nóùng, thịt tiêu mòn hết [63]. Thấy mạch của chân tàng hiện ra chỉ trong vòng mười ngày sẽ chết (Đoạn này nói bệnh ở Phế, truyền sang tâm thời chết) [64].
Đại cốt khô đét, đại nhục rúm lại, trong hung khí nghẽn, xương tủy hao mòn, cử động càng suy [65]. Thấy mạch của Chân tàng hiện ra, trong vòng một năm sẽ chết, và cũng mới có thể định được hẳn là ngày nào (như chết về ngày giáp, ất) [66].
Đại cốt khô đét, đại nhục rúm lại, trong hung khí nghẽn, trong bụng đau, trong Tâm khó chịu, lưng cổ và mình nóùng, thịt tiêu mòn hết, mắt lõm, trong không rõ. Chết ngay. Nếu còn trông thấy, tới ngày “sở bất thắng” sẽ chết (1) [67].
Thân thể đã hư quá, tà khí vụt đến, năm Tàng vít lấp, mạch đạo không thông, khí không đi lại, như người chết đuối, không thể hẹn ngày [68].
Nếu mạch tuyệt không lại, hoặc một “tức” mà năm sáu chí, dù hình nhục không thoát, chân tàng không hiện, cũng chết [69].
Chân Can mạch hiện ra, trong ngoài đều “nhăng” như lăn tay lên lưỡi dao, “lăn lẳn” như để lên trên giây đàn sắc mặt trắng xanh không bóng lông, tóc rơi rụng... Đó là bệnh chết[70] .
Chân Tâm mạch hiện ra, cứng mà bựt lên tay, như lăn tay lên chuỗi hạt châu, sắc mắt tía đen không bóng, lông, tóc rơi rụng... Đó là chứng chết [71].
Chân Thận mạch hiện ra, Đại mà hư, như cầm lông chim phớt quệt vào da, Sắc mặt trắng đỏ không bóng, lông, tóc rơi rụng... Đó là chứng chết [72].
Chân Thận mạch hiện ra, bật mạnh lên lại đứt, như vút queo vào đá rắn chắc không trùng... Sắc mặt đen vàng không bóng, lông tóc hơi rụng… Đó là chứng chết [73].
Chân Tỳ mạch hiện ra, nhược mà lúc sác, lúc xơ, sắc mặt vàng xanh không bóng, lông, tóc rơi rụng... Đó là chứng chết [74].
Phàm chân tàng mạch hiện ra, phần nhiều chết, không chữa được [75].
Hoàng Đế hỏi rằng:
Thấy chân tàng mạch hiện ra, mà nhận là chứng chết, là cớ sao? [76]
Kỳ bá thưa rằng:
Năm tàng đều nhờ khí ở Vị. Vậy Vị là gốc của năm Tàng. Tàng khí không thể tự mình dẫn đến Thái âm, phải nhờ có Vị khí mới đến được. Năm Tàng lại phải nhờ Vị khí mới hiện ra được cái mạng tượng theo đúng với mùa mà dẫn đến Thái âm. Cho nên, mỗi khi tà khí mà thắng được, tức là tinh khí đã bị suy trước [77]. Người mắc bệnh nặng, Vị khí không thể cùng dẫn đến Thái âm, nên Chân tàng mới một mình hiện ra (tức trong mạch không có Vị khí). Sở dĩ như vậy, là do bệnh khí nóù thắng. Nên mới là chứng chết [78].
Hoàng Đế nóùi rằng:
Phàm trị bệnh phải xét hình, khí: Sắc có bóng hay không bóng, mạch thịnh hay suy, bệnh mới hay cũ...bấy giờ sẽ chữa đừng để lỡ thời [79].
Hình với khí hợp nhau, có thể chữa, sắc bóng và nóåi ở ngoài da, có thể chữa, mạch thuận với bốn mùa, có thể chữa, mạch nhược mà hoạt là có vị khí, có thể chữa... Nên theo mùa mà dùng phép thích [80].
Hình với khí trái nhau, khó chữa, sắc nhợt không bóng, khó chữa, mạch thực mà kiên, khó chữa, mạch trái bốn mùa, khó chữa. Phải xét những nóãi khó đó, để bảo rõ bệnh nhân [81].
Phàm nóùi về trái với bốn mùa, tỉ như: mùa Xuân thấy mạch của Phế, mùa Hạ thấy mạch của Thận, mùa Thu thấy mạch của Tâm, mùa Đông thấy mạch của Tỳ... Khi mạch hiện ra đều Trầm sắc không chút Vị khí... Đó đều là trái bốn mùa [82].
Chưa thấy mạch hình của Tàng, về mùa Xuân mùa Hạ mà mạch Trầm, Sắc, về mùa Thu mùa Đông mà mạch Phù, Đại... Cũng là trái với bốn mùa [83].
Bệnh nhiệt mà mạch tĩnh, bệnh tiết mà mạch đại, thoát huyết mà mạch thực, bệnh ở bộ phận trong mà mạch thực và kiên, bệnh ở bộ phận ngoài mà mạch lại không thực và kiên... Đều khó chữa [84]:
Hoàng Đế hỏi rằng:
Tôi nghe nhận mạch hư thực để quyết bệnh sống hay chết... Xin cho biết rõ nguyên nhân.... [85]
Kỳ Bá thưa rằng:
Bị năm “thực” hoặc năm “hư”, đều chết [86].
Hoàng Đế hỏi:
Năm thực, năm hư, là thế nào? [87]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch thịnh, da bóng, phúc trướng, đại tiểu không thông, mắt mờ... Đó là năm “thực”, tức là khí thực) [88].
Mạch tế: da lạnh, thiểu khí, tiền hậu đều tiết và lợi, không uống ăn được... Đó là năm “hư” (tức chính khí hư) [89].
Hoàng Đế hỏi:
Mắc chứng như thế, mà đôi khi cũng có người sống, là vì sao? [90]
Kỳ Bá thưa rằng:
Nếu nước cháo có thể nuốt được vào Vị, tiết và lợi đều ngừng... Thời dù gặp “hư” cũng sống. Nếu mồ hôi ra được và tiểu tiện lợi... thời dù gặp “thực” cũng sống [91].
Mạch mùa Xuân tức là Can mạch, thuộc Đông phương mộc, muôn vật bắt đầu sinh ra từ đó, cho nên mạch khí hiện ra nhuyễn, nhược, khinh, hư mà hoạt, ngay thẳng mà dài, nên gọi là Huyền. Nếu mạch tượng trái thế, sẽ mắc bệnh [2].
Hoàng Đế hỏi:
Thế nào là trái? [3]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch khí lúc lại thực mà cường, là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, mạch khí lúc lại không thực mà “vì”, là bất cập, bệnh sẽ phát ở bên trong [4]:
Hoàng Đế hỏi:
Mạch mùa Xuân, thái quá và bất cập, phát ra chứng hậu thế nào? [5]
Kỳ Bá thưarằng:
Thái quá thời khiến người hay quên, choáng váng chóng mặt, và đau ở đầu. Nếu là bất cập thời đau ở hung xuất sang lưng, xuống cả hai bên sườn, tức đầy khó chịu [6].
Hoàng Đế hỏi:
Mạch mùa Hạ như Câu... Thế nào gọi là Câu? [7]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch mùa Hạ, tức là mạch của Tâm, thuộc Nam phương Hỏa, muôn vật nhờ đó để thịnh trưởng. Cho nên mạch khílúc lại thịnh lúc đi suy, nên mới gọi là Câu. Nếu mạch tượng trái thế, sẽ mắc bệnh [8]
Hoàng Đế hỏi:
Thế nào là trái? [9]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch khí lúc lại thịnh, lúc đi cũng thịnh, là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, mạch khí lúc lại không thịnh, lúc đi lại thịnh là bất cập, bệnh sẽ phát ở bên trong [10].
Hoàng Đế hỏi:
Mạch mùa Hạ thái quá và bất cập, phát ra chứng hậu thế nào? [11]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thái quá thời khiến người mình nóùng và đau ở ngoài da, hoặc sinh chứng lỏ lói, bất cập thời khiến người Tâm phiền, ở bộ phận trên thời phát chứng ho và nhổ, ở bộ phận dưới thời phát chứng khí tiết [12]:
Hoàng Đế hỏi:
Mạch mùa Thu như phù... Thế nào gọi là phù? [13]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch mùa Thu tức là mạch của Phế, thuộc Tây phương Kim, muôn vật nhờ đó tới thời kỳ “thâu thành”. Cho nên mạch khí lúc lại, khinh hư mà phù, lúc lại thời cấp, lúc đi thời tán, nên gọi là Phù. Nếu mạch tượng trái thế, sẽ mắc bệnh [14].
Hoàng Đế hỏi:
Thế nào là trái? [15]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch khí lúc lại như mao, ở giữa kiên, hai bên hư, là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, mạch khí lúc lại như mao mà vi, là bất cập, bệnh sẽ phát ở bên trong [16].
Hoàng Đế hỏi:
Mạch mùa Thu, thái quá và bất cập, chứng hậu phát ra thế nào? [17]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thái quá thời khiến người khí nghịch, lưng đau và bực tức khó chịu, bất cập thời khiến người suyễn, hơi thở thiếu khí mà ho, ở bên trên đôi khi thấy có máu, có khi khí hạ nghịch, là rên kêu ầm ỹ[18].
Hoàng Đế hỏi:
Mạch mùa Đông như Doanh... Thế nào gọi là Doanh? (Ở yên lặng, chìm xuống, tức là Thạch) [19].
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch mùa Đông, tức là mạch của Thận, thuộc Bắc phương thủy. Muôn vật nhờ đó mà bế tàng, cho nên mạch khí lúc lại trầm mà bác (bựt mạnh lên), nên gọi là Doanh. Nếu mạch tượng trái thế, sẽ mắc bệnh [20].
Hoàng Đế hỏi:
Thế nào là trái? [21]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch khí lúc lại như vụt vào đá (đàn thạch) là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, đến lúc đi lại chậm rãi như đếm, là bất cập [22].
Hoàng Đế hỏi:
Mạch mùa Đông thái quá và bất cập, chúng hậu phát ra thế nào? [23]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thái quá thời khiến người trễ nải, đường xương sống đau, thiếu khí, không muốn nóùi, bất cập thời khiến người trong lòng bào hao như đối, phía dưới chỗ xương sườn cụt giá lạnh, trong xương sống đau, Thiếu phúc đầu, tiểu tiện đổi sắc [24].
Hoàng Đế hỏi:
Theo thứ tự của bốn mùa các tàng đều có sự thuận nghịch khác nhau... Còn Tỳ, thời chủ về gì? [25]
Kỳ Bá thưa rằng:
Tỳ mạch thuộc Thổ, nóù là Cô tàng (đứng riêng một mình) để thấp nhuần ra bốn bên [26].
Hoàng Đế hỏi:
Nếu vậy thời sự “thiện” hay “ác” của Tỳ có thể biết được chăng? [27]
Kỳ Bá thưa rằng:
Cái thiện không thể thấy (1) chỉ cái ác có thể thấy [28].
Hoàng Đế hỏi:
Thấy cái ác như thế nào? [29]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch khí lúc lại, như nước chảy dồn, là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, nếu chỉ như chim mổ, lúc có lúc ngừng là bất cập, bệnh sẽ phát ở trong [30].
Hoàng Đế hỏi:
Mạch của tỳ, thái quá và bất cập, chứng hậu phát ra thế nào? [31]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thái quá thời khiến người tứ chi không cử động được, bất cập thời khiến người chín khiếu không thông, gọi là Trùng cường (2) [32].
Năm Tàng, thụ khí ở cái “sở sinh”, lại truyền cho cái “sở bất thắng” (đã chua nghĩa ở trên). Khí ký túc ở cái nơi “sở sinh”, mà bị chết ở cái nơi “sở bất thắng”, bấy giờ mới chết. Đó là vì khí nghịch hành (đi ngược) nên mới chết [33].
Can thụ bệnh khí ở tâm, truyền đi đến Tỳ, khí ấy ký túc ở Thận, đến Phế thời chết. [34]. Tâm thụ bệnh khí ở Tỳ, truyền đi đến Phế, khí ấy ký túc ở Can đến Thận thời chết [35]. Tỳ thụ bệnh khí ở Phết, truyền đi đến Thận, khí ấy ký túc ở Tâm đến Can thởi chết [36]. Phế thụ bệnh khí ở Thận, truyền đi đến Can, khí ấy ký túc ở Tỳ, đến Tâm thời chết [37]. Thận thụ bệnh khí ở Can, truyền đi đến Tâm, khí ấy ký túc ở Phế, đến Tỳ thời chết… [38]. Đó đều là nghịch [39]. Suốt một ngày một đêm, chia làm 5 Tàng... Để đoán biết sống hay chết, sớm hay muộn... [40]
Hoàng Đế nóùi rằng:
Năm Tàng cùng thông nhau, truyền đều có thứ tự, năm Tàng có bệnh, thời đều truyền tới cái “sở thắng”. nếu không điều trị, theo phép, hoặc 3 tháng, hoặc 6 tháng, hoặc 3 ngày, hoặc 6 ngày... Truyền khắp năm Tàng thời sẽ chết. Đó là cái thứ tự thuận truyền cho cái “sở thắng” [41].
Cho nên nóùi rằng: phân biệt được dương tàng sẽ biết được bệnh nóù từ đâu lại, phân biệt được âm tàng, sẽ biết được cái thời kỳ sống hay chết [42].
***
Phong, là một thứ đứng đầu của trăm bệnh. Giờ phong hàn phạm vào người, khiến người hào mao đều đứng thắng, bì phu bị ứ trệ lại mà thành chứng nhiệt (sốt nóùng). Gặp trường hợp đó, nên dùng phép làm phát hãn đề phong tà tiết ra ngoài [43].
Hoặc tý, bất nhân (ngoài da tê dại cấu không biết đau), sưng đau... Gặp trường hợp đó, nên dùg nước nóùng để chườm mặt, hoặc dùng lửa cứu, hoặc dùng châm thích cho tiết bỏ huyết độc [44].
Nếu không chữa bệnh tàsẽ phạm vào Phế thành chứng Phế tý, gây nên ho, khí nghịch lên trên [45].
Nếu không chữa. Phế sẽ truyền mà lấn sang Can, thành chứng Can tý, một tên là Quyết sẽ đau ở sườn và Thổ. Gặp bệnh đó nên dùng phép “án”và thích [46].
Nếu không chữa Can sẽ truyền sang Tỳ, thành chứng Tỳ phong gây nên bệnh Đau (hỏa đản) trong bụng nóng Tâm phiền, da vàng. Gặp bệnh đó, nên dùng phép “án” dùng thuốc hoặc dùng phép tắm [47].
Nếu không chữa tỳ thấy nhiệt sẽ truyền sang Thận, thành chứng Sán Hà, trong Thiếu phục thấy nhiệt nóùng nảy và đau, tiểu ra trắng như nước gạo. Lại một Tên là Cổ. Gặp bệnh đó nên dùng phép “án” và thuốc uống [48].
Nếu không chữa, Thận sẽ truyền sang Tâm, thành chứng gân mạch co rút, mà đau. Gọi là Khiết. Gặp bệnh đó nên dùng phép cứu, hoặc thuốc uống. Nếu không chữa, trong vòng mười ngày sẽ chết [49].
Thận hoặc truyền lên Tâm, Tâm liền quay trở lại mà truyền lên Phế, phát chứng hàn nhiệt. Theo phép, ba năm sẽ chết. Đó là thứ tự của bệnh (1) [50].
Nhưng nếu là bệnh “thốt phát” bỗng dưng phát ra rất chóng), không cần phải theo phép tương truyền để điều trị [51].
Hoặc có khi truyền hóa không theo thứ tự, như ưu, khủng, bi, hỷ, nóä...Vì nóù truyền không có thứ tự, nên thường gây nên bệnh lớn [52].
Tỉ như hỷ quá thời Tâm hư, Thận khí sẽ thừa cơ mà lấn, nóä [53]. Quá thời Can hư, Phế khí sẽ thừa cơ mà lấn [54]. Tư quá thời Tỳ hư, Can khí sẽ thừa cơ mà lấn [55]: Khủng quá thời Thận hư, Tỳ khí sẽ thừa cơ mà lấn [56]. Ưu quá thời Phế hư, Tâm khí thừa cơ mà lấn...
Như một Tàng hư mà bị lấn, thời sẽ truyền qua cả 5 Tàng. Cho nên bệnh có 5 thứ, mà 5 tàng lần biến...Vậy năm lần 5, sẽ thành 25. Vậy sự truyền hóa của 5 Tàng đó, cũng đều là lấn cái “sở thắng” vậy [58].
Đại cốt (tức xương tay, xương đầu) khô đét, đại nhục (tức hai mông) rúm lại, trong hung khí nghẽn, hơi thở khó khăn, mỗi khi thở phải so vai rụt cổ... Chỉ 6 tháng sẽ chết [59]. Thấy mạch của Chân tàng hiện ra, mới có thể hẹn đúng ngày nào. (Như bệnh ở Tâm, sẽ tính đến ngày Nhâm qúi thì chết v.v... Tức là ngày tương khắc) [60].
Đại cốt khô đét, đại nhục rúm lại, trong hung khí nghẽn, hơi thở khó khăn. Đau ở trong rút lên vai và cổ. Chỉ trong một tháng sẽ chết. [61]. Thấy mạch của chân tàng hiện ra, mới có thể hạn đúng ngày nào (tức ngày Canh, Tân) [62].
Đại cốt khô đét, hai nhục rúm lại, trong hung khí nghẽn, đau ở vai rút lên vai cổ, mình nóùng, thịt tiêu mòn hết [63]. Thấy mạch của chân tàng hiện ra chỉ trong vòng mười ngày sẽ chết (Đoạn này nói bệnh ở Phế, truyền sang tâm thời chết) [64].
Đại cốt khô đét, đại nhục rúm lại, trong hung khí nghẽn, xương tủy hao mòn, cử động càng suy [65]. Thấy mạch của Chân tàng hiện ra, trong vòng một năm sẽ chết, và cũng mới có thể định được hẳn là ngày nào (như chết về ngày giáp, ất) [66].
Đại cốt khô đét, đại nhục rúm lại, trong hung khí nghẽn, trong bụng đau, trong Tâm khó chịu, lưng cổ và mình nóùng, thịt tiêu mòn hết, mắt lõm, trong không rõ. Chết ngay. Nếu còn trông thấy, tới ngày “sở bất thắng” sẽ chết (1) [67].
Thân thể đã hư quá, tà khí vụt đến, năm Tàng vít lấp, mạch đạo không thông, khí không đi lại, như người chết đuối, không thể hẹn ngày [68].
Nếu mạch tuyệt không lại, hoặc một “tức” mà năm sáu chí, dù hình nhục không thoát, chân tàng không hiện, cũng chết [69].
Chân Can mạch hiện ra, trong ngoài đều “nhăng” như lăn tay lên lưỡi dao, “lăn lẳn” như để lên trên giây đàn sắc mặt trắng xanh không bóng lông, tóc rơi rụng... Đó là bệnh chết[70] .
Chân Tâm mạch hiện ra, cứng mà bựt lên tay, như lăn tay lên chuỗi hạt châu, sắc mắt tía đen không bóng, lông, tóc rơi rụng... Đó là chứng chết [71].
Chân Thận mạch hiện ra, Đại mà hư, như cầm lông chim phớt quệt vào da, Sắc mặt trắng đỏ không bóng, lông, tóc rơi rụng... Đó là chứng chết [72].
Chân Thận mạch hiện ra, bật mạnh lên lại đứt, như vút queo vào đá rắn chắc không trùng... Sắc mặt đen vàng không bóng, lông tóc hơi rụng… Đó là chứng chết [73].
Chân Tỳ mạch hiện ra, nhược mà lúc sác, lúc xơ, sắc mặt vàng xanh không bóng, lông, tóc rơi rụng... Đó là chứng chết [74].
Phàm chân tàng mạch hiện ra, phần nhiều chết, không chữa được [75].
Hoàng Đế hỏi rằng:
Thấy chân tàng mạch hiện ra, mà nhận là chứng chết, là cớ sao? [76]
Kỳ bá thưa rằng:
Năm tàng đều nhờ khí ở Vị. Vậy Vị là gốc của năm Tàng. Tàng khí không thể tự mình dẫn đến Thái âm, phải nhờ có Vị khí mới đến được. Năm Tàng lại phải nhờ Vị khí mới hiện ra được cái mạng tượng theo đúng với mùa mà dẫn đến Thái âm. Cho nên, mỗi khi tà khí mà thắng được, tức là tinh khí đã bị suy trước [77]. Người mắc bệnh nặng, Vị khí không thể cùng dẫn đến Thái âm, nên Chân tàng mới một mình hiện ra (tức trong mạch không có Vị khí). Sở dĩ như vậy, là do bệnh khí nóù thắng. Nên mới là chứng chết [78].
Hoàng Đế nóùi rằng:
Phàm trị bệnh phải xét hình, khí: Sắc có bóng hay không bóng, mạch thịnh hay suy, bệnh mới hay cũ...bấy giờ sẽ chữa đừng để lỡ thời [79].
Hình với khí hợp nhau, có thể chữa, sắc bóng và nóåi ở ngoài da, có thể chữa, mạch thuận với bốn mùa, có thể chữa, mạch nhược mà hoạt là có vị khí, có thể chữa... Nên theo mùa mà dùng phép thích [80].
Hình với khí trái nhau, khó chữa, sắc nhợt không bóng, khó chữa, mạch thực mà kiên, khó chữa, mạch trái bốn mùa, khó chữa. Phải xét những nóãi khó đó, để bảo rõ bệnh nhân [81].
Phàm nóùi về trái với bốn mùa, tỉ như: mùa Xuân thấy mạch của Phế, mùa Hạ thấy mạch của Thận, mùa Thu thấy mạch của Tâm, mùa Đông thấy mạch của Tỳ... Khi mạch hiện ra đều Trầm sắc không chút Vị khí... Đó đều là trái bốn mùa [82].
Chưa thấy mạch hình của Tàng, về mùa Xuân mùa Hạ mà mạch Trầm, Sắc, về mùa Thu mùa Đông mà mạch Phù, Đại... Cũng là trái với bốn mùa [83].
Bệnh nhiệt mà mạch tĩnh, bệnh tiết mà mạch đại, thoát huyết mà mạch thực, bệnh ở bộ phận trong mà mạch thực và kiên, bệnh ở bộ phận ngoài mà mạch lại không thực và kiên... Đều khó chữa [84]:
Hoàng Đế hỏi rằng:
Tôi nghe nhận mạch hư thực để quyết bệnh sống hay chết... Xin cho biết rõ nguyên nhân.... [85]
Kỳ Bá thưa rằng:
Bị năm “thực” hoặc năm “hư”, đều chết [86].
Hoàng Đế hỏi:
Năm thực, năm hư, là thế nào? [87]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mạch thịnh, da bóng, phúc trướng, đại tiểu không thông, mắt mờ... Đó là năm “thực”, tức là khí thực) [88].
Mạch tế: da lạnh, thiểu khí, tiền hậu đều tiết và lợi, không uống ăn được... Đó là năm “hư” (tức chính khí hư) [89].
Hoàng Đế hỏi:
Mắc chứng như thế, mà đôi khi cũng có người sống, là vì sao? [90]
Kỳ Bá thưa rằng:
Nếu nước cháo có thể nuốt được vào Vị, tiết và lợi đều ngừng... Thời dù gặp “hư” cũng sống. Nếu mồ hôi ra được và tiểu tiện lợi... thời dù gặp “thực” cũng sống [91].