Báo Kiến thức gia đình phối hợp cùng Trung ương Hội Đông y Việt Nam và Tổ chức Động vật Châu Á giới thiệu tới bạn đọc các cây thuốc, vị thuốc thay thế mật gấu, từ đó góp phần chung tay chấm dứt việc sử dụng mật gấu trong Đông y tại Việt Nam.
XUYÊN KHUNG
Ligusticum wallichii Franch, Họ Hoa tán Apiaceae Mô tả: Cây thảo sống nhiều năm. Thân rỗng hình trụ, cao 40-70cm; mặt ngoài có đường gân dọc nổi rõ. Lá mọc so le, kép 2 -3 lần, cuống lá dài 9-17cm, phía dưới ôm lấy thân, 3-5 đôi lá chét có cuống dài, phiến rạch sâu. Cụm hoa tán kép, mỗi tán 10-24 hoa có cuống phụ ngắn chừng 1cm. Hoa nhỏ màu trắng. Quả bế đôi hình trứng.
Ra hoa tháng 7-8, quả 8-9.
Bộ phận dùng: Thân rễ gọi là Xuyên khung.
Nơi sống và thu hái: cây được di thực vào Việt Nam, trồng ở các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng… Trồng bằng hạt hoặc mầm rễ vào tháng 1-2; đến tháng 11 năm sau ( hai năm), khi cây đã lụi hết lá thì thu hoạch, đào củ, cắt bỏ rễ và cuống, cành lá, phơi nắng hoặc sấy nhẹ đến thật khô.
Thành phần hóa học: có alcaloid bay hơi và tinh dầu; tròng đó có ferulic acid, 4 hydroxy-3-butylphthalide, senkyunolide, ligustilide, tetramethylpyrazine, chuanxiongol, sedanic acid.
Tính vị qui kinh: Vị cay thơm, tính ôn. Vào các kinh: Can, Tâm bào lạc, Đởm.
Tác dụng: Khu phong hoạt huyết, hành khí chỉ thống.
Công dụng: Chữa kinh nguyệt không đều, bế kinh đau bụng, ngực bụng đầy trướng, nhức đầu, cảm mạo, phong thấp tê đau.
Liều lượng và cách dùng: Ngày dùng 6 -1 2g, dạng thuốc sắc.