Hoàng Đế hỏi rằng: Tôi nghe Khí huyết, có ba trăm sáu mươi nhăm huyệt, để ứng với một năm, xin cho biết rõ là làm sao? [1]
Hoàng Đế hỏi rằng: [1] Lạc mạch hiện ra năm sắc khác nhau. Sở dĩ có sự không giống nhau đó, là vì sao? [2]
Hoàng Đế hỏi: Tôi nghe bì (da) có phận bộ, mạch có kinh kỷ, cân có kết lạc, cốt có độ lượng... Chủ về bệnh đều có khác nhau. Vậy tả, hữu, trên, dưới và Aâm, Dương ở đâu, sinh ra bệnh trước sau thế nào, xin cho biết rõ [1].
Thích gia không cần phải chẩn, chỉ nghe bệnh nhân nói, cũng có thể thấu được bệnh tình [1]. Bệnh tại đầu, nhức đầu, dùng “tàng châm” để thích. Thích tới cốt, bệnh khỏi, sẽ thôi. Phàm thích, đừng làm thương đến cốt nhục và bì. Bì là con đường để châm [2].
Hoàng Đế hỏi: Xin cho biết phép dùng Cửu châm (chín thứ châm) và thế nào là hư thực? [1]
Hoàng Đế hỏi: Ta muốn biết những điều cốt yếu của Hư Thực. Kỳ Bá đáp: Khí thực thì hình thực, khí hư thì hình hư, đó là lẽ thường tình, nếu nghịch lại thì bị bệnh. Cốc thịnh thì khí thịnh, Cốc hư thì khí hư, đó là lẽ thường, nếu nghịch lại thì bị bệnh. Mạch thực thì huyết thực, mạch hư thì huyết hư, đó là bình thường, nếu mghịch lại thì bị bệnh.
Hoàng Đế hỏi: Ta muốn nghe về những chỗ cấm châm. Kỳ Bá đáp: Ngũ tạng đều có những chỗ yếu hại, cần phải chú ý. Can khí thường đi xuống, tác dụng ở phái bên phải, Tâm thì điều tiết âm khí ở ngoài biểu, Thận quản lý phần âm khí ở nội bộ, Tỳ có công năng chuyển vận tinh hoa của thuỷ cốc để nuôi dưỡng cho các tạng, Vị là cơ quan dung nạp và tiêu hoá thức ăn. Phía trên cách mạc có 2 tạng là Tâm Phế để duy trì sinh mệnh. cạnh đốt xương thứ 7 ở phía trong có Tâm bào lạc, những chỗ đó khi chữa bằng châm cần phải chú ý tránh. nếu thương tổn đến những chỗ trọng yếu đó thì sẽ nguy hiểm. Cho nên nói, theo được sự cấm kỵ đó thì không gây ra tai hoạ, nếu trái lại thì sẽ gặp tai hoạ.
Hoàng Đế hỏi: Xin cho biết rõ sự nhất định của phép thích nên nông, nên sâu thế nào? [1]
Hoàng Đế hỏi: Xin cho biết phần cốt yếu của phép thích [1].
Ở Thái Dương mà “nói là”: Yêu thũng, mông đau, là vì tháng giêng, kiến Dần, Dần thuộc Thái dương. Tháng giêng, Dương ra ở trên, nhưng Aâm vẫn còn thịnh. Dương chưa có thể theo đúng thứ tự đề ra. Do đó, sinh ra chứng yêu thũng và mông (tức hao mông) đau [1]. Bệnh thiên hư mà đi (đi lệch), do tháng giêng dương khí đã giải đồng, địa khí tiết ra được rồi. Vậy mà nói là “thiên hử”, là vì khí mùa Đông rét, khí bất túc nên sinh chứng như vậy [2].