Thương hàn luận - Thái dương kinh - Quyển trung
Chủ nhật - 29/12/2013 06:35
Thương hàn luận - Thái dương kinh - Quyển Trung ( Điều 43 - 124 )
Điều 43
Bệnh ở Thái dương, chứng bên ngoài chưa giải, mạch Phù Nhược , nên để cho ra mồ hôi mà giải, dùng Quế Chi Thang.
Quế Chi Thang
Quế chi 3 lượng, Thược dược 3 lượng, Cam thảo 2 lượng, Sinh khương 3 lượng, Đại táo 12 trái (bỏ hột).
Sắc với 7 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, uống 1 thăng lúc ấm. Uống xong một lúc, ăn một bát cháo nóng để giúp cho sức thuốc rồi đắp chăn kín khoảng ½ giờ cho ra mồ hôi.
Điều 44
Bệnh ở Thái dương lại dùng phép hạ, thấy hơi suyễn, bởi cơ biểu chưa được giải, bài Quế Chi Gia Hậu Phác Hạnh Nhân Thang chủ về bệnh ấy.
Quế Chi Gia Hậu Phác Hạnh Nhân Thang
Quế Chi Thang thêm Hạnh nhân 50 hạt, Hậu phác 2 lương (nướng, bỏ vỏ).
Sắc với 9 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, uống nóng 1 thăng, đắp chăn cho mồ hôi ra lấm tấm.
Điều 45
Bệnh ở Thái dương, chứng ở phần biểu chưa giải, không thể hạ được. Nếu hạ là nghịch. Muốn giải phần biểu, bài Quế Chi Thang chủ về bệnh ấy.
Quế Chi Thang
Quế chi 3 lượng, Thược dược 3 lượng, Cam thảo 2 lượng, Sinh khương 3 lượng, Đại táo 12 trái (bỏ hột).
Sắc với 7 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, uống 1 thăng lúc ấm. Uống xong một lúc, ăn một bát cháo nóng để giúp cho sức thuốc rồi đắp chăn kín khoảng ½ giờ cho ra mồ hôi.
Điều 46
Bệnh ở Thái dương trước đã phát hãn không giải được, mà lại hạ đi, mạch Phù, ấy là không khỏi. Bởi Phù là bệnh ở phần biểu mà lại hạ đi cho nên không khỏi. Giờ thấy mạch Phù là biết bệnh vẫn ở phần biểu, phải dùng phép giải biểu. Bài Quế chi thang chủ về bệnh ấy.
Quế Chi Thang
Quế chi 3 lượng, Thược dược 3 lượng, Cam thảo 2 lượng, Sinh khương 3 lượng, Đại táo 12 trái (bỏ hột).
Sắc với 7 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, uống 1 thăng lúc ấm. Uống xong một lúc, ăn một bát cháo nóng để giúp cho sức thuốc rồi đắp chăn kín khoảng ½ giờ cho ra mồ hôi.
Điều 47
Bệnh ở thái Dương, mạch Phù, Khẩn (chứng của Ma Hoàng), không mồ hôi, phát sốt, cơ thể đau nhức, 8, 9 ngày không giải được. Biểu chứng vẫn còn, nên cho phát hãn. Nếu uống thuốc trước rồi (Ma Hoàng Thang), hơi bớt, bệnh nhân lại phát phiền, mắt mờ, nặng hơn, tất phải chảy máu cam. Chảy máu cam thì bệnh sẽ giải được. Sở dĩ như thế là vì có dương khí nhiều vậy. Ma Hoàng Thang chủ về bệnh ấy.
Ma Hoàng Thang
Ma hoàng 3 lượng, Quế chi 2 lượng, Chích thảo 1 lượng, Hạnh nhân 70 hột (bỏ vỏ và đầu nhọn).
Dùng 9 thăng nước sắc với Ma hoàng, còn 7 thăng, vớt bỏ bọt, cho các vị kia vào, sắc còn 2,5 thăng, bỏ bã, uống ấm 8 hợp. Đắp chăn cho ra ít mồ hôi.
Điều 48
Bệnh ở Thái dương, mạch Phù, Khẩn, phát sốt, cơ thể không có mồ hôi mà tự ra máu cam (Thì bệnh) sẽ khỏi.
Điều 49
Cả hai Dương cùng bệnh : Thái dương lúc mới mắc bệnh, nên dùng phép phát hãn. Mồ hôi làn đầu ra không hết, nhân đó nó chuyển sang thuộc về Dương minh, tiếp tục tự ra mồ hôi in ít, không ghét lạnh. Nếu bệnh ở Thái dương, các chứng hậu chưa hết, không thể dùng phép hạ, nếu dùng phép hạ sẽ là “nghịch”. Như thế, có thể cho “tiểu phát hạn”. Ví phỏng sắc mặt bừng bừng đỏ gay, là do Dương khí bị bức uất ở Biểu, nên giải đi (tửu là tiểu phát hạn), xông đi. Nếu phát hãn không thấu triệt, không đủ kể. Dương khí bị bức uất không vượt ra được, nên phát hãn (phát hãn của kinh Thái dương), không phát hãn người bệnh sẽ phiền táo, không còn biết đau đớn ở chỗ nào, chợt đau ở trong bụng, chợt đau ở tứ chi, ấn tay vào cũng không thể xét thấy, người bệnh hơi thở ngắn, chỉ ngồi, vì cái cơ hãn không ra thấu triệt. Lại cứ phát hãn thêm sẽ khỏi. Sao lại biết là không ra thấu triệt ? bởi vì mạch Sắc nên biết vậy
Điều 50
Mạch Phù, Sác, theo phép phải làm cho mồ hôi xuất ra thì khỏi. (Nếu dùng phép) Hạ thì cơ thể sẽ nặng, tâm sẽ hồi hộp, không thể lại dùng phép phát hãn, nên để cho mồ hôi tự ra mới khỏi. Sở dĩ như thế là vì mạch ở bộ Xích là mạch Vi, đó là “lý hư”. Phải đợi biểu lý thực, tân dịch tự hòa, lúc đó mồ hôi tự mà khỏi.
Điều 51
Mạch Phù, Khẩn, theo phép thì cơ thể đau nhức, nên dùng (Ma Hoàng Thang) cho mồ hôi ra để giải bệnh . Giả sử mạch bộ Xích đi Trì, không thể phát hãn. Sao lại thế ? Bởi vì doanh khí không đủ, huyết thiếu vậy.
Điều 52
Mạch Phù ấy là bệnh ở biểu, có thể dùng phép phát hạn, nên dùng bài Ma Hoàng Thang. Mạch Phù mà Sác , có thể dùng phép phát hãn, nên dùng bài Ma Hoàng Thang.
Ma Hoàng Thang
Ma hoàng 3 lượng, Quế chi 2 lượng, Chích thảo 1 lượng, Hạnh nhân 70 hột (bỏ vỏ và đầu nhọn).
Dùng 9 thăng nước sắc với Ma hoàng, còn 7 thăng, vớt bỏ bọt, cho các vị kia vào, sắc còn 2,5 thăng, bỏ bã, uống ấm 8 hợp. Đắp chăn cho ra ít mồ hôi.
Điều 53
Người bệnh thường tự ra mồ hôi, ấy là Doanh khí đang hòa. Doanh khí hòa mà bên ngoài không “hài” (hòa), vì Vệ khí (ngoại) không hài hòa cùng Doanh khí mà ra. Bởi vì Doanh khí vận hành trong mạch, Vệ khí vận hành ngoài mạch (tức là không hòa). Tiếp tục cho phát hãn thêm, thì Doanh Vệ hòa mà khỏi. Nên dùng bài Quế Chi Thang.
Quế Chi Thang
Quế chi 3 lượng, Thược dược 3 lượng, Cam thảo 2 lượng, Sinh khương 3 lượng, Đại táo 12 trái (bỏ hột).
Sắc với 7 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, uống 1 thăng lúc ấm. Uống xong một lúc, ăn một bát cháo nóng để giúp cho sức thuốc rồi đắp chăn kín khoảng ½ giờ cho ra mồ hôi.
Điều 54
Tạng (phủ) không có bệnh gì khác, chỉ đúng giờ phát nhiệt, mồ hôi tự ra mà không khỏi, ấy là Vệ khí không hòa. Trước giờ ấy dùng phép phát hãn thì khỏi. Bài Quế Chi Thang chủ về bệnh đó.
Quế Chi Thang
Quế chi 3 lượng, Thược dược 3 lượng, Cam thảo 2 lượng, Sinh khương 3 lượng, Đại táo 12 trái (bỏ hột).
Sắc với 7 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, uống 1 thăng lúc ấm. Uống xong một lúc, ăn một bát cháo nóng để giúp cho sức thuốc rồi đắp chăn kín khoảng ½ giờ cho ra mồ hôi.
Điều 55
Thương hàn mạch Phù, Khẩn, mồ hôi không ra, nhân thế mà gây ra chảy máu cam. Ma Hoàng Thang chủ về bệnh ấy.
Ma Hoàng Thang
Ma hoàng 3 lượng, Quế chi 2 lượng, Chích thảo 1 lượng, Hạnh nhân 70 hột (bỏ vỏ và đầu nhọn).
Dùng 9 thăng nước sắc với Ma hoàng, còn 7 thăng, vớt bỏ bọt, cho các vị kia vào, sắc còn 2,5 thăng, bỏ bã, uống ấm 8 hợp. Đắp chăn cho ra ít mồ hôi.
Điều 56
Thương hàn 6, 7 ngày không đại tiện, đầu nhức, có sốt, cho uống bài Thừa Khí Thang. Nếu thấy tiểu tiện trong, biết là tà không ở lý mà vẫn còn ở biểu, nên dùng phép phát hãn. Nếu đầu nhức, hẳn phải chảy máu cam, bài Quế Chi Thang chủ về bệnh ấy.
Quế Chi Thang
Quế chi 3 lượng, Thược dược 3 lượng, Cam thảo 2 lượng, Sinh khương 3 lượng, Đại táo 12 trái (bỏ hột).
Sắc với 7 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, uống 1 thăng lúc ấm. Uống xong một lúc, ăn một bát cháo nóng để giúp cho sức thuốc rồi đắp chăn kín khoảng ½ giờ cho ra mồ hôi.
Điều 57
Thương hàn mồ hôi đã ra, qua nửa ngày lại phiền, mạch Phù Sác, mau đổi dùng phương pháp phát hãn. Bài Quế Chi Thang chủ về bệnh ấy.
Quế Chi Thang
Quế chi 3 lượng, Thược dược 3 lượng, Cam thảo 2 lượng, Sinh khương 3 lượng, Đại táo 12 trái (bỏ hột).
Sắc với 7 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, uống 1 thăng lúc ấm. Uống xong một lúc, ăn một bát cháo nóng để giúp cho sức thuốc rồi đắp chăn kín khoảng ½ giờ cho ra mồ hôi.
Điều 58
Phàm bệnh đã phát hãn, nếu dùng phép thổ, phép hạ... nếu làm cho vong tân dịch, đợi Âm Dương tự hòa, sẽ tự khỏi.
Điều 59
Sau khi cho xổ mạnh lại cho phát hãn, tiểu tiện không thông , đó là mất tân dịch vậy. Đừng trị nữa (tức đừng dùng thuốc lợi tiểu), đợi tiểu tiện thông thì tự khỏi
Điều 60
Sau khi hạ lại phát hãn, thì sẽ rét run, mạch Vi, Tế. Sở dĩ như thế vì (lầm dùng phát hãn và hạ) làm cho “Nội”, “ngoại” đều hư vậy.
Điều 61
Sau khi hạ lại thêm phát hãn, ban ngày phiền táo không ngủ được, đêm thời yên tĩnh, không nôn, không khát, không có Biểu chứng, mạch Trầm, Vi, cơ thể không sốt cao, bài Càn Khương, Phụ Tử Thang chủ về bệnh ấy.
Can Khương Phụ Tử Thang
Can khương 1 củ (dùng sống, bỏ vỏ, cắt làm 8 miếng).
Sắc với 3 thăng nước còn 1 thăng, bỏ bã, uống hết một lần.
Điều 62
Sau khi phát hãn, cơ thể đau nhức, mạch Trầm Trì. Bài Quế Chi Thang thêm Thược Dược, Sinh Khương đều 1 lạng, Nhân Sâm 3 lạng. Bài Tân Gia Thang chủ về bệnh ấy.
Quế Chi Gia Thược Dược Sinh Khương Nhân Sâm Tân Gia Thang
Quế chi (bỏ vỏ), Nhân sâm đều 3 lượng, Chích thảo 2 lượng, Thược dược, Sinh khương đều 4 lượng, Đại táo 12 trái (bỏ hột). Sắc nhỏ lửa với 1 đấu 2 thăng nước, còn 3 thăng, bỏ bã, chia làm hai lần uống nóng. Uống xong một lúc, ăn một bát cháo nóng để giúp cho sức thuốc rồi đắp chăn kín khoảng ½ giờ cho ra mồ hôi.
Điều 63
Sau khi đã phát hãn (Ma hoàng) không thể dùng tiếp bài Quế Chi Thang, mồ hôi ra mà suyễn, không sốt cao, bài Ma Hoàng Hạnh Nhân Cam Thảo Thạch Cao Thang chủ về bệnh ấy.
Ma Hoàng Hạnh Nhân Cam Thảo Thạch Cao Thang
Ma hoàng (bỏ mắt) 4 lượng, Cam thảo 2 lượng, Hạnh nhân 50 hột (bỏ vỏ, đầu nhọn), Thạch cao (đập vụn) nửa cân
Sắc Ma hoàng trước với 5 thăng cho sôi vài lần, vớt bỏ bọt, cho các vị khác vào, sắc còn 1 thăng 8 hợp, bỏ bã, uống 1 thăng lúc nóng.
Điều 64
Mồ hôi ra quá nhiều, bệnh nhân bắt chéo bàn tay úp vào tâm; vùng dưới tâm hồi hộp, muốn được xoa ấn (lên đó), bài Quế Chi Cam Thảo Thang chủ về bệnh ấy.
Quế Chi Cam Thảo Thang
Quế chi 4 lượng, Chích thảo 1 lượng.
Sắc với 3 thăng nước còn 1 thăng, bỏ bã, uống hết một lần.
Điều 65
Sau khi đã phát hãn (quá nhiều), phía dưới rốn bệnh nhân hồi hộp, ấy là muốn thành chứng Bôn đồn, bài Phục Linh Quế Chi Cam Thảo Đại Táo Thang chủ về bệnh ấy.
Phục Linh Quế Chi Camthảo Đại Táo Thang
Phục linh ½ cân. Cam thảo (nướng) 2 lượng, Quế chi 4 lượng, Đại táo 15 trái (bỏ hột). Dùng nước Cam lan 1 đấu, nấu với Phục linh, còn 8 thăng, cho các vị kia vào sắc tiếp còn 3 thăng, bỏ bã, uống nóng 1 thăng, ngày 3 lần.
Điều 66
Sau khi đã phát hãn, mà bụng trướng đầy, bài Hậu Phác Sinh Khương Bán Hạ Cam Thảo Nhân Sâm Thang chủ về bệnh ấy.
Hậu Phác Sinh Khương Bán Hạ Cam Thảo Nhân Sâm Thang
Bán hạ, Hậu phác, Sinh khương đều 1\2 cân, Chích thảo 2 lượng, Nhân sâm 1 lượng.
Sắc với 1 đấu nước còn 3 thăng, bỏ bã, chia làm 3 lần, uống ấm.
Điều 67
Thương hàn, nếu dùng phép thổ, phép hạ rồi vùng dưới tâm thấy nghịch đầy, khí xung ngược lên ngực. Mỗi khi phát thì váng đầu chóng mặt, mạch Trầm, Khẩn; Phát hãn thì động tới “kinh”, cơ thể sẽ run lảo đảo, bài Phục Linh Quế Chi Bạch Truật Cam Thảo Thang chủ về bệnh ấy.
Phục Linh Quế Chi Bạch Truật Cam Thảo Thang
Phục linh 4 lượng, Quế chi 3 lượng, Bạch truật, Cam thảo đều 2 lượng. Sắc với 6 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, chia làm ba lần, uống nóng.
Điều 68
Phát hãn rồi, mà bệnh vẫn không giải, lại ghét lạnh, đó là do hư vậy, bài Thược Dược Cam Thảo Phụ Tử Thang chủ về bệnh ấy.
Thược Dược Cam Thảo Phụ Tử Thang
Thược dược, Chích thảo đều 3 lượng, Phụ tử 2 củ (nướng, bỏ vỏ, cắt làm 8 miếng).
Sắc với 5 thăng nước còn 1 thăng 5 hợp, bỏ bã, chia làm hai lần, uống nóng.
Điều 69
Phát hãn rồi lại dùng thêm phép hạ mà bệnh vẫn không giải, mà phiền táo, bài Phục Linh Tứ Nghịch Thang chủ về bệnh ấy.
Phục Linh Tứ Nghịch Thang
Phục linh 6 lượng, Nhân sâm 1 lượng, Chích thảo 2 lượng, Can khương 1,5 lượng, Phụ tử 1 củ (sống, bỏ vỏ, cắt làm 8 miếng). Sắc với 5 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, uống nóng 7 hợp, ngày 3 lần.
Điều 70
Phát hãn rồi, ghét lạnh, là do hư vậy; không ghét lạnh, chỉ nhiệt là “thực” vậy. Nên điều hòa Vị khí, dùng bài Điều Vị Thừa Khí Thang.
Điều Vị Thừa Khí Thang
Đại hoàng 4 lượng (bỏ vỏ, rửa bằng rượu), Chích thảo 2 lượng, Mang tiêu ½ cân.
Sắc với 3 thăng nước còn 1 thăng, bỏ bã, cho Mang tiêu vào, lại sắc nhỏ lửa, đợi cho sôi lên, uống ấm từng ít một.
Điều 71
Bệnh ở Thái dương, sau khi phát hãn, mồ hôi ra rất nhiều, trong Vỵ khô, phiền táo không thể ngủ, muốn uống nước, cho in ít một, để cho Vị khí hòa thì khỏi. Nếu mạch Phù, tiểu tiện không lợi, hơi sốt, tiêu khát (uống vào tiêu ngay, lại uống), bài Ngũ Linh Tán chủ về bệnh ấy.
Ngũ Linh Tán
Trư linh (bỏ vỏ)Phục linh, Bạch truật đều 16 thù, Trạch tả 1 lượng 6 thù, Quế chi ½ lượng. Tán bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần dùng 1 thìa nhỏ hoà với nước nóng, uống, mồ hôi ra sẽ khỏi.
Điều 72
Phát hãn rồi, mạch Phù Sác, mà phiền khát, bài Ngũ Linh Tán chủ về bệnh ấy.
Ngũ Linh Tán
Trư linh (bỏ vỏ), Phục linh, Bạch truật đều 16 thù, Trạch tả 1 lượng 6 thù, Quế chi ½ lượng. Tán bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần dùng 1 thìa nhỏ hoà với nước nóng, uống, mồ hôi ra sẽ khỏi.
Điều 73
Thương hàn, mồ hôi ra mà khát, bài Ngũ Linh Tán chủ về bệnh ấy. Nếu không khát, bài Phục Linh Cam Thảo Thang chủ về bệnh ấy.
Ngũ Linh Tán
Trư linh (bỏ vỏ)Phục linh, Bạch truật đều 16 thù, Trạch tả 1 lượng 6 thù, Quế chi ½ lượng. Tán bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần dùng 1 thìa nhỏ hoà với nước nóng, uống, mồ hôi ra sẽ khỏi.
Phục Linh Cam Thảo Thang
Phục linh, Quế chi đều 2 lượng, Sinh khương 3 lượng, Chích thảo 1 lượng.
Sắc với 4 thăng nước còn 2 thăng, bỏ bã, chia làm 3 lần, uống nóng.
Điều 74
Trúng phong phát nhiệt 6, 7 ngày, chẳng giải mà phiền, có cả chứng của biểu lý, khát muốn uống nước, uống vào thời thổ, gọi là chứng thủy nghịch, bài Ngũ Linh Tán chủ về bệnh ấy.
Ngũ Linh Tán
Trư linh (bỏ vỏ)Phục linh, Bạch truật đều 16 thù, Trạch tả 1 lượng 6 thù, Quế chi ½ lượng. Tán bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần dùng 1 thìa nhỏ hoà với nước nóng, uống, mồ hôi ra sẽ khỏi.
Điều 75
Lúc chưa cầm đến tay để án mạch, ( thấy) bệnh nhân bắt chéo tay úp lên vùng ngực, thầy nhân đó bảo người bệnh thử ho lên xem, mà người bệnh không ho, hẳn là do tai điếc mà không nghe tiếng. Sở dĩ có như thế là vì dùng phép phát hãn thêm, bị hư nên sinh ra chứng như vậy.
Điều 76
Phát hạn rồi, uống nước nhiều, sẽ gây ra suyễn, tắm nước cũng sẽ suyễn.
Điều 77
Phát hạn rồi, nước, thuốc không thể uống vào miệng, đó là nghịch. Nếu lại phát hãn nữa, tất thổ và hạ không dứt.
Điều 78
Sau khi phát hãn, thổ, hạ rồi, hư phiền không ngủ được, nếu nặng hơn tất trằn trọc, tráo trở, trong tâm trộn trạo rạo rực, bài Chi Tử Xị Thang chủ về bệnh ấy. Nếu hơi thở yếu, bài Chi tử Cam Thảo Xị Thang chủ về bệnh ấy. Nếu lại nôn nữa, bài Chi Tử Sinh Khương Xị Thang chủ về bệnh ấy.
Chi Tử Xị Thang
Chi tử 14 quả (xé làm đôi) 14 trái, Hương xị (bọc vải) 4 hợp.
Sắc Chi tử với 4 thăng nước còn 2,5 thăng, cho Hương xị vào, sắc còn 1,5 thăng, bỏ bã, chia làm hai lần, uống nóng một nửa, hễ nôn ra được thì thôi không cần uống tiếp.
Chi Tử Cam Thảo Xị Thang
Chi tử 14 quả (xé làm đôi) 14 trái, Hương xị (bọc vải) 4 hợp, Cam thảo 2 lượng.
Sắc với Chi tử với 4 thăng nước còn 2,5 thăng, cho Hương xị vào, sắc còn 1,5 thăng, bỏ bã, chia làm hai lần, uống nóng một nửa, hễ nôn ra được thì thôi không cần uống tiếp.
Chi Tử Sinh Khương Xị Thang
Chi tử 14 quả (xé làm đôi) 14 trái, Hương xị (bọc vải) 4 hợp, Sinh khương 5 lượng.
Sắc Chi tử với 4 thăng nước còn 2,5 thăng, cho Hương xị vào, sắc còn 1,5 thăng, bỏ bã, chia làm hai lần, uống nóng một nửa, hễ nôn ra được thì thôi không cần uống tiếp.
Điều 79
Phát hãn và hạ rồi mà vẫn phiền nhiệt, trong ngực như “nghẽn” lại, bài Chi Tử Xị Thang chủ về bệnh ấy.
Chi Tử Xị Thang
Chi tử 14 quả (xé làm đôi) 14 trái, Hương xị (bọc vải) 4 hợp.
Sắc Chi tử với 4 thăng nước còn 2,5 thăng, cho Hương xị vào, sắc còn 1,5 thăng, bỏ bã, chia làm hai lần, uống nóng một nửa, hễ nôn ra được thì thôi không cần uống tiếp.
Điều 80
Thương hàn 5, 6 ngày, đã cho xổ mạnh rồi, mà cơ thể nóng không dứt, trong bụng kết đau, chưa muốn giải, bài Chi Tử Xị Thang chủ về bệnh ấy.
Chi Tử Xị Thang
Chi tử 14 quả (xé làm đôi) 14 trái, Hương xị (bọc vải) 4 hợp.
Sắc Chi tử với 4 thăng nước còn 2,5 thăng, cho Hương xị vào, sắc còn 1,5 thăng, bỏ bã, chia làm hai lần, uống nóng một nửa, hễ nôn ra được thì thôi không cần uống tiếp.
Điều 81
Thương hàn, đã cho xổ rồi mà tâm phiền, bụng đầy, nằm, dậy không yên, bài Chi Tử, Hậu Phác Thang chủ về bệnh ấy.
Chi Tử Hậu Phác Thang
Chi tử 14 trái, Hậu phác (nướng) 4 lạng, Chỉ thực 4 trái (tẩm nước, bỏ ruột, màng, sao).
Sắc với 3,5 thăng nước còn 2,5 thăng, bỏ bã, chia làm hai lần. Uống một nửa, thấy nôn ra được thì thôi, không uống nữa.
Điều 82
Thương hàn (có chứng của bài Chi Tử ), thầy thuốc dùng thuốc hoàn để xổ mạnh, thân nhiệt không đi hết, hơi phiền, bài Chi Tử Can Khương Thang chủ về bệnh ấy.
Chi Tử Can Khương Thang
Chi tử 14 trái, Can khương 2 lượng.
Sắc với 3,5 thăng nước còn 1 thăng, bỏ bã, chia làm hai, uống nóng một nửa. Hễ nôn ra được thì thôi
Điều 83
Phàm dùng bài Chi Tử Thang, nếu bệnh nhân vốn sẵn có chứng vi đường (phân hơi nát), không thể cho uống bài này.
Điều 84
Bệnh ở Thái dương, dùng phép phát hãn, mồ hôi ra mà bệnh không giải, bệnh nhân vẫn phát sốt, vùng dưới tâm hồi hộp, chóng mặt, mình rung động muốn nhảy xuống đất... bài Chân Vũ Thang chủ về bệnh ấy.
Chân Vũ Thang
Phục linh, Thược dược, Sinh khương đều 3 lượng, Bạch truật 2 lượng, Phụ tử 1 củ (nướng, bỏ vỏ).
Sắc với 8 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, uống nóng 7 hợp, ngày 3 lần.
Điều 85
Bệnh yết hầu khô ráo, không thể dùng phép phát hãn.
Điều 86
Người mắc chứng lâm ( tiểu buốt, gắt...), không thể dùng phếp phát hãn, nếu phát hãn ắt đi tiểu ra máu.
Điều 87
Chứng mụn nhọt, dù cơ thể đau nhức, không thể dường phép phát hãn, nếu phát hãn sẽ thành bệnh Chí [kính) (cấm khẩu, uốn mình cong như cái cung, hoặc chân tay co rút, hoặc rã rời).
Điều 88
Chứng chảy máu cam, không thể dùng phép phát hãn, nếu phát hãn, tất trên trán lõm xuống, mạch Khẩn Cấp, mắt trợn ngược, không liếc qua lại được , không ngủ được.
Điều 89
Người bị mất huyết, không thể dùng phép phát hãn, nếu phát hãn, tất sẽ run lẩy bẩy.
Điều 90
Người vốn sẵn có chứng ra mồ hôi nhiều lại dùng phép phát hãn thêm, tất hoảng hốt, tâm loạn, tiểu tiện xong, thì âm (tức niệu quản) thấy đau, dùng bài Vũ Dư Lương Hoàn.
Điều 91
Bệnh nhân vốn hàn lại dùng phép phát hãn, trong Vị ắt bị lạnh, sẽ thổ ra giun.
Điều 92
Bệnh vốn phải phát hãn mà lại dùng phép hạ, thế là nghịch; nên dùng phép phát hãn trước mới không nghịch; bệnh vốn nên hạ, mà lại phát hãn, thế là nghịch, nên dùng phép hạ trước mới là không nghịch.
Điều 93
Thương hàn ở Thái dương, thầy thuốc dùng phép hạ, tiếp luôn bị chứng hạ lợi thanh cốc không dứt (ăn gì đi ra thức ấy), mình đau nhức ấy, nên gấp cứu phần lý, sau đó thân mình còn đau nhức, đại tiểu tiện điều hòa, nên gấp cứu Biểu. Cứu lý dùng Tứ Nghịch Thang, cứu biểu dùng Quế Chi thang.
Tứ Nghịch Thang
Chích thảo 2 lượng, Can khương 1,5 lượng, Phụ tử 1 củ sống (bỏ vỏ, chia làm 8 miếng).
Sắc với 3 thăng nước, còn 1 thăng 2 hợp, bỏ bã, chia làm hai lần uống nóng.
Quế Chi Thang
Quế chi 3 lượng, Thược dược 3 lượng, Cam thảo 2 lượng, Sinh khương 3 lượng, Đại táo 12 trái (bỏ hột).
Sắc với 7 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, uống 1 thăng lúc ấm. Uống xong một lúc, ăn một bát cháo nóng để giúp cho sức thuốc rồi đắp chăn kín khoảng ½ giờ cho ra mồ hôi.
Điều 94
Bệnh ở Thái dương phát sốt, đầu đau , mạch lại Trầm. Nếu mồ hôi ra rồi mà không khỏi, thân thể đau nhức, nên cứu phần Lý, dùng bài Tứ Nghịch Thang.
Tứ Nghịch Thang
Chích thảo 2 lượng, Can khương 1,5 lượng, Phụ tử 1 củ sống (bỏ vỏ, chia làm 8 miếng).
Sắc với 3 thăng nước, còn 1 thăng 2 hợp, bỏ bã, chia làm hai lần uống nóng.
Điều 95
Bệnh ở Thái dương, trước đã dùng phép hạ ngay mà không khỏi... Bấy giờ mới lại dùng phép phát hãn. Bởi đó, biểu lý đều hư, bệnh nhân đến nỗi thành chứng Mạo (đầu nặng như úp vật gì lên trên). Người mắc chứng mạo, mồ hôi ra sẽ tự khỏi. Sở dĩ như thế vì có mồ hôi ra thì phần biểu hòa. Nếu còn thấy phần Lý chưa hòa, bấy giờ mới nên dùng phép hạ.
Điều 96
Bệnh ở Thái dương chưa giải, mạch Âm Dương đều thấy đều đặn, tất trước phải thấy run rẩy, mồ hôi ra mà khỏi. Nếu chỉ Dương mạch mà Vi, dùng phép hạ sẽ khỏi. Như muốn dùng phép hạ, bài Điều Vị Thừa Khí Thang làm chủ.
Điều Vị Thừa Khí Thang
Đại hoàng 4 lượng (bỏ vỏ, rửa bằng rượu), Chích thảo 2 lượng, Mang tiêu ½ cân.
Sắc với 3 thăng nước còn 1 thăng, bỏ bã, cho Mang tiêu vào, lại sắc nhỏ lửa, đợi cho sôi lên, uống ấm từng ít một.
Điều 97
Bệnh ở Thái dương tất phải phát sốt và tự ramồ hôi . Đó là bởi Vinh yếu, Vệ mạnh, nên mồ hôi mới ra. Muốn cứu tà phong, nên dùng bài Quế Chi Thang.
Quế Chi Thang
Quế chi 3 lượng, Thược dược 3 lượng, Cam thảo 2 lượng, Sinh khương 3 lượng, Đại táo 12 trái (bỏ hột).
Sắc với 7 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, uống 1 thăng lúc ấm. Uống xong một lúc, ăn một bát cháo nóng để giúp cho sức thuốc rồi đắp chăn kín khoảng ½ giờ cho ra mồ hôi.
Điều 98
Thương hàn đã 5, 6 ngày, trúng phong, lúc nóng lúc lạnh, ngực sườn đầy, miệng đắng , không nói năng gì, không muốn ăn uống, tâm bứt rứt, hay nôn, hoặc trong ngực thấy bứt rứt mà không nôn, hoặc khát hoặc trong bụng đau, hoặc dưới sườn cứng, hoặc dưới vùng tâm hồi hộp, tiểu tiện không lợi, hoặc không khát, thân mình có hơi nóng hoặc lại ho, thì dùng bài Tiểu Sài Hồ Thang.
Tiểu Sài Hồ Thang
Sài hồ ½ cân, Nhân sâm, Hoàng cầm, Cam thảo, Sinh khương đều 3 lượng, Bán hạ ½ thăng, Đại táo 12 trái (bỏ hột).
Sắc với 7 thăng nước, còn 3 thăng, bỏ bã, chia làm 3 lần uống ấm.
Điều 99
Huyết yếu, khí hết, tấu lý tự mở, tà khí nhân đó mà vào, chọi nhau với chính khí, kết ở dưới jông sườn . Chính với tà phân tranh, gây nên lúc nóng lúc lạnh, lúc khỏi lúc phát có giờ giấc, cứ lìm lịm không muốn ăn uống. Tạng với Phủ cùng liên lạc với nhau, chỗ đau lại nằm ở dưới. Tà ở cao mà đau ở dưới nên mới sinh ra nôn, bài Tiểu Sài Hồ Thang chủ về bệnh ấy. Uống Sài Hồ Thang rồi mà lại khát, là thuộc về Dương minh chứng , theo phép (dùng bài Bạch Hổ Gia Nhân Sâm Thang) mà điều trị.
Điều 100
Mắc bệnh đã 6, 7 ngày, mạch Trì, Phù, Nhược, ghét gió, ghét lạnh, tay chân ấm. Thầy thuốc dùng phép hạ luôn 2, 3 lần, không ăn được, dưới hông sườn đầy, đau, mặt, mắt, cơ thể hiện sắc vàng, cổ gáy cứng, tiểu tiện lại khó. Nếu dùng bài Sài Hồ Thang, sẽ bị tiêu chảy nặng ở hậu môn. Vốn khát mà uống nước lại nôn... không nên dùng bài Sài Hồ Thang, (nếu dùng) ăn vào sẽ nôn.
Điều 101
Thương hàn 4, 5 ngày, mình nóng, ghét gió, gáy, cổ cứng, dưới hông sườn đầy, tay chân ấm mà khát, bài Tiểu Sài Hồ Thang chủ về bệnh ấy.
Tiểu Sài Hồ Thang
Sài hồ ½ cân, Nhân sâm, Hoàng cầm, Cam thảo, Sinh khương đều 3 lượng, Bán hạ ½ thăng, Đại táo 12 trái (bỏ hột).
Sắc với 7 thăng nước, còn 3 thăng, bỏ bã, chia làm 3 lần uống ấm.
Điều 102
Thương hàn mà mạch Dương thấy Sáp, mạch Âm thấy Huyền, theo phép thì trong bụng đau gấp, trước hết cho uống bài Tiểu Kiến Trung Thang, nếu vẫn không khỏi, bài Tiểu Sài Hồ Thang chủ về bệnh ấy.
Tiểu Kiến Trung Thang
Quế chi, Sinh khương đều 3 lượng, Cam thảo 2 lượng, Thược dược 6 lượng, Đại táo 12 trái (bỏ hột), Giao di 1 thăng.
Sắc với 7 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, cho Giao di vào, đun nhỏ lửa cho tan, uống nóng 1 thăng, ngày 3 lần.
Tiểu Sài Hồ Thang
Sài hồ ½ cân, Nhân sâm, Hoàng cầm, Cam thảo, Sinh khương đều 3 lượng, Bán hạ ½ thăng, Đại táo 12 trái (bỏ hột).
Sắc với 7 thăng nước, còn 3 thăng, bỏ bã, chia làm 3 lần uống ấm.
Điều 103
Người có chứng nôn mửa, không thể dùng bài Tiểu Kiến Trung Thang, vì thang này có vị ngọt.
Điều 104
Thương hàn trúng phong, nếu thấy có triệu chứng thuộc về Sài hồ là đủ, không cần phải có tất cả.
Điều 105
Phàm thuộc về chứng của bài Sài Hồ Thang mà lại dùng phép hạ, nếu chứng của Sài hồ chưa hết, lại cho uống thêm Sài Hồ Thang, hẳn người bệnh phải bứt rứt mà run, lại phát sốt, ramồ hôi thì bệnh giải.
Điều 106
Thương hàn đã 2, 3 ngày (tức là thời kỳ chủ khí của kinh Thiếu dương) trong tâm bị hồi hộp mà lại bứt rứt, bài Tiểu Kiến Trung Thang chủ về bệnh ấy.
Tiểu Kiến Trung Thang
Quế chi, Sinh khương đều 3 lượng, Cam thảo 2 lượng, Thược dược 6 lượng, Đại táo 12 trái (bỏ hột), Giao di 1 thăng.
Sắc với 7 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, cho Giao di vào, đun nhỏ lửa cho tan, uống nóng 1 thăng, ngày 3 lần.
Điều 107
Bệnh ở Thái dương đã trải qua hơn 10 ngày, lại dùng phép hạ luôn 2, 3 lần; 4- 5 ngày sau chứng của Sài Hồ vẫn còn. Trước hết cho uống bài Tiểu Sài Hồ Thang, ói không ngừng , vùng dưới tâm đầy, uất, hơi bứt rứt, đó là bệnh chưa giải hết, cho uống bài Đại Sài Hồ Thang để hạ.
Tiểu Sài Hồ Thang
Sài hồ ½ cân, Nhân sâm, Hoàng cầm, Cam thảo, Sinh khương đều 3 lượng, Bán hạ ½ thăng, Đại táo 12 trái (bỏ hột).
Sắc với 7 thăng nước, còn 3 thăng, bỏ bã, chia làm 3 lần uống ấm.
Đại Sài Hồ Thang
Sài hồ ½ cân, Hoàng cầm, Thược dược, Sinh khương đều 3 lượng, Chỉ thực (nướng) 4 lượng, Đại hoàng 2 lượng, Bán hạ ½ thăng, Đại táo 12 trái (bỏ hột).
Sắc với 1 đấu 2 thăng nước còn 6 thăng, bỏ bã, lại sắc tiếp còn 3 thăng. Uống nóng 1 thăng, ngày 3 lần.
Điều 108
Thương hàn trải qua 13 ngày, vẫn không giải, ngực, hông sườn đầy mà lại nôn, về buổi chập tối, phát ra chứng triều nhiệt, rồi hơi bị tiêu lỏng, đó vốn là chứng Đại Sài Hồ, không biết dùng phép Hạ đi, giờ lại thấy tiêu lỏng , biết là thầy thuốc dùng thuốc hoàn để cho xổ. Trị như vậy không đúng phép. Chứng triều nhiệt là đang thực, trước hết, nên dùng bài Tiểu Sài Hồ để giải bên ngoài, sau đó dùng bài Sài Hồ Gia Mang Tiêu Thang chủ về bệnh ấy.
Sài Hồ Gia Mang Tiêu Thang
Sài hồ 2 lượng 6 thù, Hoàng cầm, Nhân sâm, Sinh khương đều 1 lượng, Mang tiêu 2 lượng, Bán hạ 20 thù, Đại táo 4 trái.
Sắc với 4 thăng nước còn 2 thăng, bỏ bã, cho Mang tiêu vào, lại đun sôi, chia 2 lần uống nóng.
Điều 109
Thương hàn đã 13 ngày không khỏi, gọi là quá kinh, nói xàm, đó là do có nhiệt. Nên dùng thang dược để cho xổ. Nếu tiểu tiện lợi, đại tiện phải cứng. Trái lại, có tiêu chảy, mạch điều hòa, biết là do thầy thuốc dùng thuốc hoàn để cho xổ, thế là chữa trái phép. Nếu tiêu chảy, mạch nên Vi mà tay chân lạnh (quyết), ngược lại gọi là hòa, là do nội thực. Bài Điều Vị thừa khí thang chủ về bệnh ấy.
Điều Vị Thừa Khí Thang
Đại hoàng 4 lượng (bỏ vỏ, rửa bằng rượu), Chích thảo 2 lượng, Mang tiêu ½ cân.
Sắc với 3 thăng nước còn 1 thăng, bỏ bã, cho Mang tiêu vào, lại sắc nhỏ lửa, đợi cho sôi lên, uống ấm từng ít một.
Điều 110
Bệnh ở Thái dương không giải được, nhiệt kết ở bàng quang, bệnh nhân như cuồng. Nếu huyết tự đi xuống, nhiệt cũng hạ theo, bệnh sẽ khỏi. Nếu bên ngoài không giải, cũng chưa thể dùng phép công, mà trước hết nên giải ngoại tà, ngoại tà giải rồi, nhưng thiếu phúc lại bị câu kết (bụng dưới có vẻ đau gấp rút khó chịu), bấy giờ mới có thể dùng phép công, nên dùng bài Đào Hạch Thừa Khí Thang.
Đào Hạch Thừa Khí Thang
Đào nhân 40 hột (bỏ vỏ, đầu nhọn), Quế chi, Mang tiêu, Chích thảo đều 2 lượng, Đại hoàng 4 lượng.
Sắc với 7 thăng nước còn 2 thăng, bỏ bã, cho Mang tiêu vào lại sắc nhỏ lửa cho sôi vài lần, uống 5 hợp trước bữa ăn, ngày 3 lần.
Điều 111
Thương hàn đến ngày thứ 8, thứ 9 (thuộc về thời kỳ chủ khí của kinh Thiếu dương), dùng phép xổ (làm hại đến khí của Dương minh) gây ra ngực đầy, bứt rứt, kinh sợ (chứng của Thiếu dương Tâm bào), tiểu tiện không lợi, nói lảm nhảm, khắp cơ thể nặng nề, không thể trở mình, bài Sài Hồ Gia Long Cốt Mẫu Lệ Thang chủ về bệnh ấy.
Sài Hồ Gia Long Cốt Mẫu Lệ Thang
Bán hạ, Đại hoàng đều 2 lượng, Sài hoò 4 lượng, Sinh khương, Nhân sâm, Long cốt, Diên đơn, Quế chi, Phục linh, Mẫu lệ đều 1,5 lượng, Đại táo 6 trái.
Sắc với 8 thăng nước còn 4 thăng. Thái Đại hoàng ra thành như quân cờ, cho vào, đun sôi vài lượt, bỏ bã, uống nóng 1 thăng.
Điều 112
Thương hàn mà bụng đầy (chứng của Tỳ), nói lảm nhảm (chứng của Vị), thốn khẩu mạch Phù mà Khẩn, ấy là Can phạm vào Tỳ, gọi tên là tung (ỷ thế ngang dọc để hiếp người khác), châm huyệt Kỳ Môn.
Điều 113
Thương hàn phát nhiệt, rờn rợn ghét lạnh, khát quá, muốn uống nước, bụng hẳn phải đầy, mồ hôi tự ra, tiểu tiện lợi, bệnh thế muốn giải, đó là Can phạm vào Phế, gọi là Hoành (ngang tàng không còn sợ gì), châm huyệt Kỳ môn.
Điều 114
Thương hàn mạch Phù, thầy thuốc dùng hỏa để bức cướp đến nỗi vong dương, tất phát kinh sợ và cuồng, nằm ngồi không yên. Bài Quế Chi Khử Thược Dược, gia Thục Tất Mẫu Lệ Long Cốt Cứu Nghịch Thang chủ về bệnh đó.
Điều 115
Thái dương mắc bệnh trúng phong, dùng hỏa để bức cho mồ hôi ra. Tà phong bị hỏa nhiệt bức khí huyết phải tràn ra ngoài, mất đi cái thường độ. Hai dương cùng hun đốt, khắp mình phát thành mầu vàng . Nếu Dương tà thịnh thời muốn chảy máu cam. Âm hư thì tiểu tiện khó. Âm Dương đều hư kiệt thìi thân thể khô táo, mồ hôi chỉ ra ở đầu, đến cổ thì hết, bụng đầy, hơi suyễn, miệng khô, họng loét hoặc không đại tiện được, nếu lâu thời nói lảm nhảm, nặng hơn đến phải ói, tay chân vật vã, lần áo sờ giường. Nếu tiểu tiện lợi, vẫn còn chữa được (vì còn chút chân âm chưa xuất hết).
Điều 116
Thương hàn mạch Phù, thầy thuốc dùng hỏa để bức cướp đến nỗi vong dương, tất phát kinh sợ và cuồng, nằm ngồi không yên. Bài Quế Chi Khử Thược Dược, gia Thục Tất Mẫu Lệ Long Cốt Cứu Nghịch Thang chủ về bệnh đó.
Quế Chi Khử Thược Dược Gia Thục Tất Long Cốt Mẫu Lệ Cứu Nghịch Thang
Quễ hi, Sinh khương đều 3 lượng, Cam thảo 2 lượng, Mẫu lệ 5 lượng, Long cốt, Thục tất (rửa bỏ mùi tanh) đều 4 lượng. Tán bột. Sắc Thục tất trước với 1 đấu 2 thăng nước, còn 1 đấu, cho các vị kia vào, sắc còn 3 thăng, bỏ bã, uống nóng.
Điều 117
Bệnh hình, khi phát, giống như là thương hàn, mạch lạikhông Huyền, Khẩn mà Nhược. Mạch Nhược tất phải khát. Nếu bị hỏa đốt, tất nói lảm nhảm. Nhưng mạch Nhược lại có phát nhiệt, tức là trong Nhược lại thấy Phù, dùng phương pháp giải đi, mồ hôi sẽ xuất ra, bệnh khỏi.
Điều 118
Bệnh ở Thái dương nếu dùng hỏa để đốt nóng , không có mồ hôi (vì huyết dịch bị thương), bệnh nhân tất phải táo, sẽ quay lại với Thái dương kinh, bệnh không giải tất phải tiêu ra huyết, gọi tên là hỏa tà.
Điều 119
Mạch Phù, nhiệt lắm mà lại dùng phép cứu. Ấy là bệnh thực. Nếu thực, dùng phép hư để trị. Bệnh nhân bị hỏa gây nên động, tất sẽ làm cho cuống họng bị khô mà nôn ra máu.
Điều 120
Mạch Vi, mạch Sác, phải cẩn thận không nên cứu. Nếu cứu, nhân đó hỏa thịnh thành tà khí, công lên trên thành phiền nghịch. Truy hư trục thực (âm vốn hư lại lấy hỏa để truy đuổi khiến cho càng hư, nhiệt vốn thực lại dùng hỏa để trục khiến cho thực càng thực... ) đến nỗi huyết tan trong mạch. Hỏa khí dù nhỏ nhưng công vào trong có lực, khiến cho xương bị khô, gân bị tổn thương, huyết khó hồi phục trở lại.
Điều 121
Mạch Phù nên dùng phép hàn để giải. Nếu dùng hỏa để cứu, tà không lối ra, lại nhân cái thế mạnh của hỏa mà càng thịnh, bệnh sẽ từ thắt lưng trở xuống, bệnh phải nặng nề mà tê, tức gọi là hỏa nghịch. Nếu muốn tự giải, trước đó phải có phiền, bây giờ mới có mồ hôi mà giải. Sao lại biết được ? Vì mạch Phù nên biết là mồ hôi ra thì bệnh sẽ khỏi.
Điều 122
Dùng Thiêu châm khiến cho mồ hôi ra. Chỗ châm bị hàn, hạch sưng lên đỏ tía, sẽ phát ra chứng Bôn đồn, khí từ thiếu phúc sẽ xung lên tâm, cứu trên chỗ sưng 1 tráng, cho uống bài Quế Chi Gia Quế Thang, lại thêm Quế 2 lạng.
Quế Chi Gia Quế Thang
Quế chi, Thược dược, Sinh khương đều 3 lượng, Cam thảo, Mẫu quế đều 2 lượng, Đại táo 12 trái (bỏ hột). Sắc với 7 thăng nước còn 3 thăng, bỏ bã, uống nóng một thăng.
Điều 123
Chứng hỏa nghịch ( có chứng trạng giống với chứng Vi thực), mà lầm dùng phép xổ, nhân đó lại dùng thiêu châm, gây nên chứng phiền táo (hạ đã làm mất âm ở Lý, thiêu châm lại làm bức Dương hư, âm dương chia rẽ nhau, gây ra). Dùng bài Quế Chi Cam Thảo Long Cốt Mẫu Lệ Thang làm chủ để trị.
Quế Chi Cam Thảo Long Cốt Mẫu Lệ Thang
Quế chi 1 lượng, Cam thảo, Long cốt, Mẫu lệ đều 2 lượng.
Tán bột, sắc với 5 thăng nước còn 2,5 thang, bỏ bã, uống nóng 8 hợp, ngày 3 lần.
Điều 124
Bệnh Thương hàn ở Thái dương nếu dùng ôn châm tất sinh ra kinh sợ.
Tác giả bài viết: sưu tầm