Tính vị qui kinh:
Đắng, chua, bình. Qui kinh Can Thận.
Theo Y văn cổ:
Thành phần chủ yếu:
Triterpenoid, saponine, ecdysterone, inokosterone, rhamnoza, acid oleanic, galactoza, glucoza, muối kali.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:
Thuốc có tác dụng hoạt huyết khu ứ, bổ can thận dưỡng gân cốt, lợi niệu thông lâm, làm sứ dược dẫn huyết và hỏa xuống phần dưới cơ thể. Chủ trị các chứng: rối loạn kinh nguyệt, đau kinh, tắt kinh, đau bụng sau sanh, đau do chấn thương, lưng gối nhức mỏi, huyết niệu, tiểu tiện đau buốt, không thông, các chứng thổ huyết, nục huyết, đau lợi răng, miệng lưỡi lở, đau đầu chóng mặt, đẻ khó.
Theo Y văn cổ:
B.Theo kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
Thuốc có tác dụng thúc đẩy quá trình tổng hợp protein. Dịch chiết Cồn Ngưu tất có tác dụng ức chế tim ếch cô lập, làm giãm mạch hạ áp, hưng phấn tử cung có thai hoặc không có thai. Thuốc còn có tác dụng lợi tiểu, làm hạ đường huyết, cải thiện chức năng gan, hạ cholesterol máu.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị bệnh phụ khoa: như rối loạn kinh nguyệt, đau kinh, kinh bế, đau bụng sau sanh do thuốc có tác dụng thông kinh, khu ứ, chỉ thống.
Thường dùng phối hợp với Đào nhân, Hồng hoa, Đương qui.
Có thể dùng các bài thuốc sau:
2.Trị các chứng gân cơ yếu: (thuốc có tác dụng tư bổ can thận) thường phối hợp với Thục địa, Qui bản, Tỏa dương, Hổ cốt. Bài thuốc thường dùng:
3.Trị chứng tê thấp khớp đau: dùng Ngưu tất phối hợp với Thương truật, Hoàng bá, Ý dĩ như các bài:
4.Trị chứng tiểu ra máu: (viêm niệu, sạn niệu) dùng Ngưu tất gia Đương qui, Cù mạch, Hoạt thạch ( Ngưu tất thang trong sách Bị cấp thiên kim yếu phương).
5. Phòng trị chứng Bạch hầu: Ngưu tất 7 phần, Cam thảo 3 phần, sắc uống thay nước trà hằng ngày.
6.Trị chứng thổ huyết, nục huyết ( chảy máu cam): thường dùng phối hợp với Tiểu kế, Bạch mao căn, Chi tử .. có kết quả. Có tác giả dùng Ngưu tất, Đại giá thạch, Tiên hạc thảo lượng bằng nhau trị chảy máu cam 110 ca, uống trung bình trên dưới 10 thang đều khỏi ( Báo cáo của Quách Trung, Tạp chí Trung y Triết Giang 1984,19(7):305).
7.Trị tử cung xuất huyết cơ năng: dùng Xuyên Ngưu tất mỗi ngày 30 - 45g sắc uống. Trị 23 ca, uống liên tục 2 - 4 ngày hết xuất huyết, trường hợp xuất huyết lâu ngày, uống tiếp thêm 5 - 10 ngày cũng cố ( Tạp chí Trung y Triết Giang 1982,17(2):86).
8.Trị Lactosurie: dùng Ngưu tất 90 - 120g, hạt rau cần 45 - 60g, sắc 2 lần trộn uống chia 2 - 3lần, uống 6 thang khỏi, 3 tháng thấy có kết quả, trị 21 ca có kết quả 86% ( Tạp chí Trung y Sơn Đông 1989,6:40).
Liều dùng và chú ý:
Nguồn tin: theo GS Trần Văn Kỳ - Dược học cổ truyền - Ảnh sưu tầm từ Internet.