THIÊN 22 : TÀNG KHI PHÁP THỜI LUẬN

Thứ bảy - 09/11/2013 12:18

Hoàng đế nội kinh tố vấn

Hoàng đế nội kinh tố vấn
Hoàng Đế hỏi: Hợp thân hình con người, bắt chước bốn mùa, năm hành để điều trị… Thế nào là thuận, thế nào là nghịch, thế nào là đắc, thế nào là thất…? Xin cho biết rõ [1].
Kỳ Bá thưa rằng:
Năm hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Thay nhau qúi, thiện, để biết chết sống, để quyết thành bại, và định cái khí của năm Tàng, cùng cái lúc hơi bớt cái lúc nặng thêm... Rồi do đó dự tính khi chết và sống [2].
 Hoàng Đế nóùi:
Xin cho biết rõ căn nguyên... [3]
 Kỳ Bá thưa rằng:
Can chủ về mùa Xuân, kinh khí do Túc Quyết âm thiều dương chủ trị, ứng với hai ngày Giáp Aát. Can khổ về sự cấp (tức thái quá), kíp ăn vị cam để cho hoãn lại [4].
 Tâm chủ về mùa hạ, kinh khí do thủ Thiếu âm Thái dương chủ trị, ứng với hai ngày Bính Đinh. Tâm khổ về sự hoãn (chậm chạp tán mạn), kíp ăn vị toan để cho hậu lại [5].
Tỳ chủ về Trường hạ, kinh khí do Túc Thái âm Dương minh chủ trị, ứng với hai ngày Mậu, Lỷ, Tỳ thổ về sự thập, kíp ăn vị khổ để cho ráo lại [6].
 Phế chủ về mùa thu, kinh khí do Thủ Thái âm Dương minh chủ trị, ứng với hai ngày Canh Tân, Phế, khổ về khí nghịch lên, kíp ăn vị khổ để cho tiết đi [7].
 Thận chủ về mùa Đông, kinh khí do Túc Thiếu dương, Thái âm chủ trị, ứng với hai ngày Nhâm Qúi, Thận khổ về sự táo (ráo), kíp ăn vị tân để cho nhuận, do đó khai được tấu lý, sinh ra tân dịch và thông khí... [8]
 Bệnh ở Can, khỏi về mùa Hạ, mùa Hạ không khỏi tới mùa Thu sẽ nặng thêm. Nếu mùa Thu không chết, sẽ đứng bệnh về Đông và khỏi hẳn, về mùa Xuân. Cấm hóng gió (theo nghĩa đoạn trên này và cả dưới đây, chuyên nói về sinh khắc, duyệt giả chú ý) [9].
 Bệnh ở Can, khỏi về ngày Bính, Đinh, ngày Bính, Đinh không khỏi, sẽ nặng thêm về ngày Canh, Tân. Nếu ngày Canh, Tân không chết sẽ đứng bệnh về ngày Nhâm, Qúi, và khỏi hẳn về ngày Giáp, Aát [10].
 Bệnh ở Can, sáng sớm tỉnh táo, chập tối nặng, nửa đêm yên [11].
 Can khí muốn sơ tán, kíp ăn vị tân để cho tán; dùng vị tân để bổ, vị toan để tả [12].
 Bệnh về tâm, khỏi ở mùa Trường hạ, mùa trường hạ không khỏi, sẽ nặng ở mùa Đông. Nếu mùa Đông không chết, sẽ đứng bệnh ở mùa Xuân, khỏi hẳn ở mùa Hạ [13].
 Cấm ăn thức  nóùng, mặc áo nóùng [14].
 Bệnh về Tâm, khỏi ở ngày Mậu, Kỷ, ngày Mậu Kỷ, không khỏi, nặng ở ngày Nhâm, Qúi. Nếu ngày Nhâm Qúi không chết, sẽ đứng bệnh ở ngày Giáp, Aát khỏi hẳn ở ngày Bính, Đinh [15].
 Bệnh về Tâm, đúng trưa tỉnh táo, nửa đêm nặng, sáng sớm yên [16].
 Tâm muốn nhuyễn (mềm mại), kíp ăn vị hàn để cho nhuyễn, dùng vị hàn để bổ, vị cam để tả [17].
Bệnh về Tỳ, khỏi ở mùa Thu, mùa Thu không khỏi, sẽ nặng ở mùa Xuân. Nếu mùa Xuân không chết, sẽ đứng bệnh ở mùa Hạ, khỏi ở mùa Trường hạ [18].
 Cấm ăn thức có tính ấm, ăn nó, và ở nơi ẩm mắc áo ướt [19].
 Bệnh về Tỳ, khỏi ở ngày Canh, Tân, ngày Canh tân không khỏi sẽ nặng ở ngày Giáp, Aát. Nếu ngày Giáp Aát không chết, sẽ đứng bệnh ở ngày Bính, Đinh, khỏi hẳn ở ngày Mậu, Kỵû... [20]
 Bệnh về Tỳ, lúc xế chiều tỉnh táo, lúc mặt trời mọc nặng, chập tối yên [21].
 Tỳ muốn được thư hoãn, kíp ăn vị cam để cho thư hoãn, dùng vị khổ để tả, vị cam để bổ [22].
 Bệnh về Phế, khỏi ở mùa Đông, mùa Đông không khỏi, nặng ở mùa Hạ. Nếu mùa Hạ không chết, sẽ đứng bệnh ở mùa Trường Hạ, khỏi hẳn về mùa Thu [23].
 Cấm ăn uống thứ lạnh và mặc áo lạnh [24].
 Bệnh về Phế, khỏi ở ngày Nhâm, Qúi, ngày Nhâm, Qúi không khỏi, sẽ nặng ở ngày Bính, Đinh. Nếu ngày Bính, Đinh không chết, sẽ đứng bệnh ở ngày Mậu, Kỷ, khỏi hẳn ở ngày Canh, Tân [25].
 Bệnh về Phế, chập tối tỉnh táo, đúng trưa nặng, nửa đêm yên [26].
 Phế muốn thâu liễm, kịp ăn vị toan cho thâu liễm. Dùng vị toan bổ, vị tân tả [27].
 Bệnh về Thận, khỏi ở mùa Xuân, mùa Xuân không khỏi, sẽ nặng ở mùa Trường hạ. Nếu mùa Trường Hạ không chết, sẽ đứng bệnh ở mùa Thu, khỏi hẳn ở mùa Đông.
Cấm ăn các thức xào, nướng có tính nóng vào áo hơ (là) nóng [28].
 Bệnh về Thận, khỏi ở ngày Giáp Aát, ngày Giáp Aát không khỏi, sẽ nặng ở ngày Mậu, Kỷ. Nếu ngày Mậu, Kỷ không chết, sẽ đứng bệnh ở ngày Canh, Tân, khỏi hẳn ở ngày Nhâm Qúi [29].
 Bệnh về Thận, nửa đêm tỉnh táo, gặp gió tứ qúi (Thìn, Tuất, Sửu, Ty) nặng, xế chiều yên [30].
Thận muốn kiên, kịp ăn vị khổ để cho kiên, dùng vị khổ để bổ, vị hàm để tả[31].
Phàm tà khí phạm vào người, lấy cái “thắng” để cùng thêm lên (Như Can Bệnh, thêm lên về Canh, Tân v.v) gặp cái “sở bất thắng” thời càng nặng, gặp cái “sở sinh” thời đứng bệnh. Gặp đúng vào bản vị của mình sẽ khỏi. Tất phải hiểu thấy cái mạch của năm Tàng, mới có thể nóùi được lúc nhẹ, lúc nặng và dự đoán được cái thời kỳ sinh tử [32].
Bệnh về Can, đau ở hai bên sườn, dẫn xuống Thiếu phúc, khiến người hay nóä. Can hư thời mắt lờ mờ trông không rõ, tai nghe không tỏ, hay sợ như sắp bị người bắt. Nên lấy ở hai kinh mạch Quyết âm và Thiếu dương [33].
 Khí nghịch thời đầu nhức, tai điếc, mà sưng, nên bớt huyết đi (hoặc tả bớt) [34].
 Bệnh về tâm, trong hung đau, chi lạc ở hiếp đầy, dưới hiếp đau, khắp khoảng xương vai, lưng đều đau, hai cánh tay cũng đau [35].
Tâm hư thời hung phúc to ra, dưới hiếp và yêu cùng rút mà đau. Lấy ở hai kinh mạch Thiếu Aâm, Thái dương, và trích huyết dưới lưỡi [36].
 Nếu bệnh biến, lại phải thích thêm huyệt Aâm khích cho ra huyết [37].
 Bệnh về Tỳ, mình nặng, cơ nhục nhão nát tê dại, chân không co lại được, lúc đi, đau trong xương, dưới chân cũng đau [38].
 Tỳ hư thời bụng đầy, ruột sôi, xôn, tiết thức ăn không đều. Nên lấy huyệt ở các kinh mạch Thái âm, Dương minh và Thiếu âm [39].
 Bệnh về phế, suyễn, khái, nghịch khí, vai, lưng đau, hãn ra, cầu âm (xương khu), vế, đầu gối, xương ống đều đau [40].
 Phế hư thời không thở được dài, tai điếc, cuống họng khô. Lấy huyết ở ngoài kinh mạch Thái âm, Túc Thái Dương và bên trong quyết âm [41].
 Bệnh về thận, bụng to, ống chân sưng, suyễn và khái, mình nặng, lúc ngủ toát mồ hôi, ghê gió [42].
 Thận hư thời trong bụng đau, đại phúc, tiểu phúc đều đau, quyết lãnh, ý tứ không vui
Nên lấy huyết ở kinh mạch Thiếu âm và Thái âm [43].
 Can sắc xanh, nên ăn vị ngọt, nghạnh mễ, thịt bò, quả táo qùi... Đều thuộc về vị ngọt [44].
 Tâm sắc xích, nên ăn vị toan, tiểu đậu, thịt chó, quả mạn, rau cửu... Đều thuộc về vị toan [45].
 Phế sắc bạch, nên ăn vị khổ, lúa mạch, thịt dê, quả hạnh, rau giới (củ kiệu), đều thuộc về vị khổ [46].
 Tỳ sắc hoàng, nên ăn vị hàn, đại đậu, thịt lợn, quả lật, rau hoặc... đều thuộc về vị hàm [47].
 Thận sắc hắc, nên ăn vị tân, hoàng thử, thịt gà, quả đào, củ hành... đều thuộc về vị tân [48].
 Vị tân thời tán, vị toan thời thâu, vị cam thời hoãn, vị khổ thời kiên, vị hàn thời nhuyễn [49].
 Các thứ thuốc có tính chất độc công trị bệnh tà [51]. Năm giống lúa để chuyên về sự nuôi năm Tàng [52]. Năm thứ quả để giúp cho sự nuôi[53]. Năm loài súc để giúp sự bổ ích [54]. Năm thứ rau để cho đầy đủ thêm. Khí với vị hợp lại để ăn và uống, sẽ bổ tinh và ích khí [55].
Vậy năm vị tân, toan, cam, khổ, hàm... đó đều có sự lợi ích, hoặc tán, hoặc thâu, hoặc cấp, hoặc kiên, hoặc nhuyễn v.v.. [56]. Bốn mùa năm tàng mắc bệnh, đều theo sự cân dùng thích nghi của năm tàng [57].

Tác giả bài viết: Thiếu Phúc sưu tầm

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Cám ơn

PHÚC TÂM ĐƯỜNG
Số: 4 B đường Phan Bội Châu, Phường 1, TP Tuy Hòa
Mail: Phuctamduong@gmail.com | ĐT: 0905 147 543

 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây