Hoàng Đế hỏi:
Năm Tàng, sáu Phủ, hàn nhiệt cùng chuyển di như thế nào? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thận di hàn tới Tỳ, gây nên chứng ung, thũng, thiểu khí [2]. Tỳ di hàn tới Can, gây nên chứng ung thũng, co gân. Can di hàn tới Tâm, gây nên chứng cuồng và Cách trung [3]. Tâm di hàn tới Phế, gây nên chứng Phế tiêu, Phế tiêu là một chứng uống vào một phần, đi tiểu ra hai phần không thể chữa được [4]. Phế di hàn tới Thận, gây nên chứng Dũng thủy, “Dũng thủy” là một chứng án vào phúc bộ không kiên, thủy khí ký túc ở Đại trường, đi nhanh thời trong bụng kêu óc ách, như túi chứa nước. Hoàn toàn là thủy bệnh [5]. Tỳ di nhiệt tơí Can, thời gây nên chứng kinh, và Nục [6]. Can di nhiệt tới Tâm thời chết [7]. Tâm di nhiệt tới Phế, gây nên chứng Cách tiêu [8]. Phế di nhiệt tới Thận, gây nên chứng Nhu chí [9]. Thận di nhiệt tới Tỳ, gây nên hư và trường tiết, khó chữa [10]. Bào di nhiệt tới Bàng quang, gây nên chứng “long” và tiểu ra huyết [11]. Bàng quang di nhiệt tới Tiểu trường [12]. Cách trường không thấm xuống được, gây nên chứng lở nát trong miệng [13]. Tiểu trường di nhiệt tới Đại trường, gây nên chứng phục giả, chứng Trĩ [14]. Đại trường di nhiệt tới Vị ăn nhiều mà gầy mòn, gọi là chứng Thực diệc [15]. Vị di nhiệt tới đởm cũng gọi là chứng thực diệc [16]. Đởm di nhiệt tới Não, thời đau nhức ở trán và Ty uyên, rồi lại thêm cả chứng mục và mờ mắt. Đó, đều gây nên bởi khí quyết (1) [17].