122. GAN THOÁI HÓA MỠ SAU VIÊM GAN
- Biện chứng đông y: Can uất khí trệ, đờm thấp tắc lạc
- Cách trị: Sơ can giả uất, thanh nhiệt hóa đờm.
- Đơn thuốc: Phức phương hùng đởm tán.
- Công thức:
Thanh đại 15g | Minh phàn 15g |
Uất kim 15g | Xuyên liên 10g |
Mật gấu 3g |
Tất cả tán thành bột, đóng trong viên nang số 1, uống sau bữa ǎn mỗi lần 1 viên, mỗi ngày 2-3 lần.
- Hiệu quả lâm sàng: Thẩm XX, nữ, 40 tuổi. Khám lần đầu ngày 20-8-1973. Người bệnh từ nǎm 1972 tự cảm thấy rất mệt mỏi, đau vùng gan. Kiểm tra chức nǎng gan: Maclagan 8 đơn vị, xác định là viêm gan, cho nghỉ làm việc, đồng thời tǎng cường dinh dưỡng, hàng ngày ǎn uống rất nhiều thức ǎn giàu đạm như sữa bì, trứng gà v.v... Tới nǎm 1973 thể trọng tǎng lên hơn 15kg, đạt tới 79 kg. Cảm giác mệt mỏi càng tǎng, sau mỗi lần mệt nhọc lại đau vùng gan, đại tiện không thông thoát, mỗi ngày đi 2-3 bận bực bội, váng đầu. Huyết áp 150/90mmHg, Cholesterol huyết 297mg%, Maclagan 9 đơn vị. Kiểm tra gan bằng siêu âm thấy 1/2 phía trước có sóng của thoái hóa mỡ. Đã dùng thuốc đông y và tân dược nhưng kết quả chưa rõ. Rêu lưỡi trắng, cuống lưỡi cáu, mạch trầm, tế, hoạt. Cho chữa bằng bài thuốc Phức phương hùng đởm tán. Bắt đầu uống thuốc này 30-8-1973, tổng cộng 4 liều. Đến ngày 21-11-1974 kiểm tra lại: cholesterol huyết đã hạ xuống tới 170mg%. Maclagan 3 đơn vị, transaminase glutamic bình thường, thể trọng giảm còn khoảng 60 kg. Về sau vì làm việc quá mệt nên có lần kiểm tra thấy Maclagan lên tới 12 đơn vị. Bèn cho uống thuốc Điền kê bạch phượng hoàng, mỗi ngày 1 viên uống vào ban trưa. Ngày 28-8-1975 kiểm tra lại các xét nghiệm đã bình thường. Kiểm tra gan bằng siêu âm: đoạn 1/3 trước vùng gan có thấy sóng của thoái hóa mỡ nhẹ. Đã không còn bất kỳ khó chịu nào, gan lách đều không to, huyết áp 120/80mmHg có thể làm việc cả ngày. Qua theo dõi 4 nǎm thấy không tái phát.
- Bàn luận: Trường hơp này là gan thoái hóa mỡ, dùng bài Phức phương hùng đởm tán để chữa có kết quả. Trong bài thuốc có Xuyên hoàng liên khổ hàn, thanh nhiệt, làm không thấp đờm; mật gấu thanh nhiệt, lương can lợi đởm. Thực tiễn cho thấy Mật gấu trong bài thuốc có thể thay thế bằng một cái Mật lợn hong gió cho khô tán mịn cũng có thể thu được kết quả lý tưởng. Thanh đại, Minh phàn (thanh phàn tán) có thể thanh nhiệt thoái hoàng, thực tiễn lâm sàng còn cho thấy nó như có tác dụng tiêu mỡ, cần nghiên cứu thêm.
116. GẦY ĐÉT DO SUY DINH DƯỠNG
- Biện chứng đông y: Tì khí khuy tồn lâu ngày, khí huyết cực hư, nguyên dương muốn thoát.
- Cách trị: ích khí dưỡng huyết, ôn thận trợ dương.
- Đơn thuốc: ích khí dưỡng huyết cứu thoát thang gia vị.
- Công thức:
Toan táo nhân (sao) 36g | Hà thủ ô (chế) 9g |
Ngọc trúc 9g | Phụ tử (chín) 12g |
Thỏ ti tử (sống) 24g | Hoàng kỳ (chích) 12g |
Bạch truật (sao) 15g | Qui thân 9g |
Đan sâm 12g | Bá tử nhân 12g |
Sa nhân 9g | Ích trí nhân 9g |
Phúc bồn tử 12g | Kê huyết đằng 9g |
Trúc nhự 9g | Hồng hoa 6g |
Sắc hai nước tổng cộng lấy 250 ml, chia uống hai lần mỗi ngày một thang, cứ uống 3 thang thì ngừng uống một ngày.
- Hiệu quả lâm sàng: Thiệu X, nữ 27 tuổi, sơ chẩn ngày 26-11-1961. Đầu nǎm bệnh nhân có cảm giác mệt mỏi, tứ chi bải hoải, chân yếu hay ngã, tay cầm hay rơi. Sau đó người gầy mòn dần, mệt yếu, thích ngủ, sợ lạnh, tay chân tê, bắp chân thường bị chuột rút.
Từ sau tháng 5 xuất hiện phù từ bàn chân lên dần đến chi dưới, tay mặt, lúc nặng thì hai mắt híp lại. Ngoài ra thì ǎn nhiều, đái vặt, đái gấp. Sau khi hết phù thì gầy rạc. Đã hai lần điều trị ở bệnh viện công xã, không có kết quả, xin điều trị bằng đông y. Bệnh nhân kể thấy kinh lần đầu nǎm 14 tuổi, lấy chồng nǎm 17 tuổi, đã mang thai 4 lần, 3 lần trước đẻ non, lần thứ 4 sinh một con trai đã 5 tuổi, khỏe mạnh. Đẻ đã quá 5 nǎm mà chưa thấy kinh trở lại. Kiểm tra thấy phát triển bình thường, dinh dưỡng rất kém, sắc mặt vàng vọt gầy võ, người cao 158cm, thể trọng 36,5 kg. Tinh thần không phấn chấn, da khô không sǎn. Thân nhiệt 36o C mạch đập 72 lần/phút, thở 18 lần/phút, huyết áp 106/74 mmHg, bạch cầu 8000/mm3, hồng cầu 2800000/mm3, huyết sắc tố 7g%, protein huyết tương toàn phần 4,6g%, albumin 3,1%, globulin 1,5g%. Kiểm tra điện tâm đồ thấy kali huyết quá thấp. Chẩn đoán lâm sàng là gầy đét do suy dinh dưỡng, đã dùng thuốc nhiều ngày không có tác dụng. Hiện nay khám thấy bệnh nhân hết sức mệt mỏi, tứ chi uể oải không có sức, cánh tay không đưa lên nổi, cổ mềm rũ không ngẩng dược đầu, hơi thở ngắn, thở một cách phí sức, không thể chủ động ỉa đái, toàn thân đau đớn, tâm tình trầm lặng, thỉnh thỏang chảy nước mắt. Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng hơi bẩn, mạch trầm tế. Các chứng từ tì khí khuy tổn lâu ngày, khí huyết hư cực, nguyên dương muốn thoát. Muốn trị thì cần mau mau ích khí dưỡng huyết, ôn thận trợ dương. Cho dùng ích khí dưỡng huyết cứu thoát thang gia vị. Dùng thêm Nhân sâm 2g, Hổ phách 0,9g, cùng nghiền thành bột mịn chia hai lần uống với nước thuốc. Sau khi uống 6 thang, bệnh có chuyển biến tốt rõ rệt, tinh thần, ǎn uống ngủ đều đã trở lại bình thường, thở đã thông, đại tiểu tiện bình thường, đã có thể xuống đất hoạt động nhưng vẫn còn cảm thấy mệt nhọc, ngồi xổm xuống không đứng dậy nổi. Vẫn cho dùng bài trên, có gia giảm, ngoài ra lại phối hợp dùng viên hoàn chế bằng các vị ôn dưỡng huyết mạch hòa huyết điều kinh. Bài này gồm: Hoàng kỳ (chích) 42g, Đảng sâm 42g, Đương qui 36g, Thục địa 42g, Sơn dược 24g, Sơn thù du 24g, Đan bì 18g, Vân linh 18g, Trạch tả 18g, Nhục quế 12g, Phụ tử (chính) 12g, Bạch truật (sống) 26g, Đan sâm 42g, Nguyên hồ 30g, Miết giáp (sống) 24g, Kê huyết đằng 90g, Hồng hoa 24g, Sa nhân 24g, Thỏ ti tử (sống) 26g, Hà thủ ô (chế) 30g, Thiên niên kiện 36g, Cẩu tích (bỏ lông) 48g, tán tất cả thành bột thật mịn, dùng nước chế thành hoàn nhỏ, sấy khô bỏ lọ, sau bữa ǎn sáng nửa giờ uống một lần, 3 giờ chiều uống một lần, tối trước khi đi ngủ uống một lần, mỗi lần 9g. Uống thuốc 1 tuần ngừng 1 ngày. Trước sau 9 lần khám. Trong quá trình chữa bệnh, khi kali huyết giảm thấp thì cho bổ sung clorua kali cùng với các loại vitamin, còn thuốc thang có gia giảm đôi chút. Bệnh tình tốt dần. Ngày 28-3-1962 kiểm tra thấy huyết sắc tố 9g%, protein toàn phần huyết tương 6,4g%, ablumin 44g%, globulin 2,0g%; ngày 14-5 kiểm tra lại thấy huyết sắc tố 10,5g%, hồng cầu 3 750 000/mm. Ngày 16-5, khi xuất viện, ǎn ngon, mỗi ngày ǎn hơn nửa kg lương thực, thể trọng tǎng tới 44kg.
54. GIÃN PHẾ QUẢN KHẠC MÁU
- Biện chứng đông y: Phế táo nhiệt, can hỏa cang thịnh, đốt hỏng phế lạc, bức huyết vọng hành.
- Cách trị: Bình can thanh phế, sinh lạc chỉ huyết.
- Đơn thuốc: Phức phương thanh phế chỉ lạc thang.
- Công thức:
Tang diệp 9g | Tang bì 9g |
Địa cốt bì 15g | Sinh cam thảo 9g |
Sinh địa 15g | Địa du 15g |
Tì bà diệp (bao) 12g | Chích tử uyển 15g |
Hoàng cầm 9g | Đại cáp tán (bao) 15g |
Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
- Hiệu quả lâm sàng: Chu XX, nữ, 26 tuổi, công nhân. Sơ chẩn ngày 10-7-1975. Tháng 9 nǎm trước bệnh nhân bắt đầu khạc máu, đã chẩn đoán khạc máu do giãn phế quản. Sau đó tháng 3 nǎm nay lại ho có đờm lẫn máu, sắc máu đỏ tươi, có lẫn đen tía. Đến lúc này đã hơn 3 tháng. Mấy ngày gần đây đau ngực, sườn cǎng, nóng nảy dễ gắt gỏng, lưng đau ê ẩm, kinh nguyệt trước kỳ, trước kinh đau bụng, mũi khô miệng táo thích uống. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi mỏng bẩn, mạch huyền tế sác. Cho dùng "Phức phương thanh phế chỉ lạc thang". Uống được 6 thang, trong đờm đã bớt lẫn máu. Vẫn đau tức ngực mỏ ác, đau mỏi lưng. Cho bài trên thêm Uất kim 9g, tiếp tục uống 6 thang nữa hết hẳn khạc máu, trong đờm cũng hết máu, bệnh nhân rất mừng. Nhưng vẫn chưa hết khó chịu trong ngực. Uống tiếp bài thuốc trên bỏ Hoàng cầm, Đại cáp tán, thêm Chỉ xác 9g, để củng cố kết quả khỏi bệnh.
- Bàn luận: Bệnh nhân này giãn phế quản khạc máu, thời gian bệnh tuy chưa đầy 1 nǎm, nhưng 3 tháng nay khái huyết liên miên không ngừng, tinh thần sa sút nặng. Bệnh nhân vốn can vượng phế nhiệt, do khạc máu lâu ngày không khỏi, phế âm đã hư mà can hỏa càng vượng, bệnh tình có xu thế phát triển. Trừ chứng cáu gắt là do cang hỏa cang thịnh, mũi táo khái huyết thuộc phế nhiệt âm hư, còn đau mỏi lưng, là phế ẩm tổn hại, dẫn đến thận âm cũng hư, gọi là "Phế thận đồng nguyên". Do vậy mà ngoài việc sử dụng Tả bạch tán để thanh phế, Đại cáp tán để bình can, Tì bà diệp, Tử uyển, Hoàng cầm, Địa du để túc phế, thanh nhiệt chỉ huyết. Dùng Sinh địa để tư thận lương huyết. Sau đó máu cầm dần, tức ngực chưa hết tǎng Uất kim, Chỉ xác để sơ can giải uất, cuối cùng đạt được kết quả lý tưởng.
55. GIÃN PHẾ QUẢN KHẠC MÁU QUÁ NHIỀU
- Biện chứng đông y: Thận tinh hư khuyết, thủy không hàm mộc, mộc hỏa phạt kim, phế lạc tổn thương gây khạc máu.
- Cách trị: ích khí dưỡng âm, tư thủy hàm mộc.
- Đơn thuốc: Chi khoáng cao.
- Công thức:
Bắc sa sâm 120g | Tiên đông 60g |
Mạch đông 60g | Ngũ vị tử 48g |
Thục địa hoàng 240g | Chung bạch truật 48g |
Phục thần 60g | Viễn chí 48g |
Toan táo nhân 36g | Đông trùng hạ thảo 60g |
Qui bản 120g | Bắc câu kỷ 120g |
Hạ khô thảo 60g | Xuyên bối mẫu 60g |
Đương qui thân 60g | Ngân sài hồ 48g |
Xuyên hoàng linh 30g | Xuyên luyện nhục 36g |
Tử đan sâm 48g | Cam thảo 24g |
20 vị thuốc trên thêm nước vừa đủ sắc nhỏ lửa lấy nước thứ nhất thứ hai, bỏ bã đặc, sau đó thêm 1 lượng mật ong vừa phải cùng với đường phèn làm thành cao bỏ lọ dùng dần. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 10-15g, uống với nước ấm.
- Hiệu quả lâm sàng: Đã dùng bài thuốc trên chữa cho trên 20 người đều khỏi cả. Chu XX, nam, 36 tuổi, cán bộ. Khạc máu từ nǎm 1959, từ đó vẫn thường phát bệnh lại. Đã từng nằm bệnh viện, tuy có thể cầm máu được tạm thời nhưng không trị đến gốc. Nǎm 1963 lại khạc nhiều máu, bệnh viện tỉnh chẩn đoán là giãn phế quản. Kiểm tra bệnh nhân khạc ra một lượng máu lớn, ho nhẹ, thở ngắn, mặt ủ rũ, yếu mệt, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế. Cho dùng "Chi khoáng cao". Uống được 1 liều hết khạc máu, các chứng đều hết. Dặn bệnh nhân mỗi nǎm mùa đông phải chịu khó uống 1 liều. Bệnh nhân liên tục dùng 3 mùa đông, bệnh chưa tái phát, hỏi lại thì thân thể đã mạnh khỏe.
- Bàn luận: "Chi khoáng cao" có thể dùng cho bệnh lao thổ huyết, cũng có thể được kết quả hết sức mỹ mãn như vậy. "Chi khoáng cao" mùa hè sau khi điều chế để vào tủ lạnh. Vì trong cao có một lượng đường thích hợp mà mùa hè nhiệt độ cao, vi khuẩn dễ mọc, thuốc sẽ biến chất. Bỏ vào tủ lạnh để lâu vẫn tốt.
Nguồn tin: Viện thông tin thư viện y học trung ương