Ở nước ta hiện nay có dùng quả cây Chua chát hay Táo mèo làm Sơn tra, nhưng phần lớn còn nhập của Trung Quốc.
Quả Táo mèo và Chua chát (Docynia Indica (Mall) và Chua chát còn gọi là Sán sá (Tày) Malus doumeri (Bois) hay Docynia doumeri (Bois) có giống Sơn tra Trung Quốc không cần được nghiên cứu thêm.
Tính vị qui kinh:
Vị chua ngọt, tính hơi ôn. Qui kinh Tỳ Vị Can.
Theo các sách Y học cổ:
Thành phần chủ yếu:
Theo các nhà nghiên cứu Trung Quốc, trong Sơn tra có: acid citric, acid crataegic, acid cafiic, vitamin C, hydrat cacbon, protid, mỡ, calci, phospho, sắt, acid oleanic, ursolic, cholin, acetylcholin, phytosterin.
Tác dụng dược lý:
A.Tác dụng dược lý theo Y học cổ truyền:
Tiêu thực hóa tích, hoạt huyết tán ứ. Chủ trị các chứng tích trệ, bụng đau tiêu chảy, sản hậu ứ trệ đau bụng, nước ối ra không dứt, sán khí, đau tinh hoàn.
Trích đọan Y văn cổ:
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
Theo các nhà nghiên cứu dược lý Trung Quốc Sơn tra có tác dụng:
Sơn tra có tác dụng an thần, làm tăng tính thẩm thẩu của mao mạch và làm co cơ tử cung.
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị chứng thực tích bụng đầy đau, rối loạn tiêu hóa:
2.Trị tắt kinh do ứ huyết hoặc sau sanh bụng đau do ứ trệ dùng:
3.Trị kiết lỵ cấp, viêm đại tràng cấp : dùng Sơn tra 60g sao cháy nhẹ gia 30g rượu trắng trộn đều sao lại cho khô rượu, cho nước đun trong 15 phút (cho 200ml nước) bỏ xác cho đường đỏ 60g sắc sôi, uống lúc thuốc còn nóng ngày 1 thang, thường chỉ 1 thang là đủ. Trị 100 ca đều khỏi (Báo Tân y học 1975,2:111).
Với phương pháp trên một báo cáo khác dùng trị 51 ca lỵ cấp khỏi 41 ca, kết quả tốt hơn dùng Clorocid (Báo cáo của Chu Kiến Viễn, Báo Tân y học 1977, bìa 3).
Có tác giả dùng thang thuốc có Sơn tra sao cháy 120g và Hoa đậu ván trắng 30g, ngày 1 thang sắc uống trị lỵ cấp và viêm đại tràng cấp 91 ca, có kết quả 97,80% và có nhận xét Sơn tra trị lỵ tốt hơn, còn Hoa đậu ván trắng đối với viêm đại tràng tốt hơn (Thông tin Trung thảo dưọc 197,3:31).
4.Trị chứng lipid huyết cao: tác giả dùng Sơn tra, Mạch nha cô chế thành dạng trà, ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 gói 30g, mỗi liệu trình 2 tuần. Trị cholesteron cao 127 ca có kết quả 92% (Tạp chí Trung y Liêu Ninh 1979,5:23).
5.Trị cơn đau thắt tim, bệnh mạch vành: tác giả dùng chiết xuất lá Sơn tra chế thành viên, mỗi viên 25mg, mỗi lần uống 4 viên, ngày 3 lần, một liệu trình 4 tuần. Dùng trị 219 ca cơn đau thắt ngực. Kết quả khỏi triệu chứng tỷ lệ 92,2%, điện tâm đồ được cải thiện 47,1% (Báo cáo của Ông Duy Lương, Báo Y học Bắc Kinh 1986,2:101).
6.Trị viêm thận bể thận: mỗi ngày dùng Sơn tra sống 100g sắc với nước lạnh sôi trong 15 - 20 phút, sắc 3 lần, mỗi lần 500ml (lượng người lớn, trẻ em dùng 1/3 - 1/2 lượng người lớn), một liệu trình 14 ngày, đã trị 105 ca, trong đó có 45 ca cấp tính, kết quả chung là 91,1%, số mạn tính 60 ca, tỷ lệ kết quả 88,3% (Báo cáo của Lôi Chấn Giáp, Báo Tân trung y Thiễm Tây 1975, 1:35).
7.Trị nấc cụt: uống nước sắc Sơn tra sống, người lớn mỗi lần 15ml, ngày 3 lần. Đã trị 85 ca nấc cụt khó khỏi, phần lớn trong một ngày khỏi.( Đoạn Quần Lục và cộng sự, Báo Tạp chí Trung tây y kết hợp 1984,5:315).
8.Trị Polip thanh đới: mỗi ngày dùng lượng Tiêu Sơn tra 24 - 30g sắc 2 lần được 1500ml nước thuốc, để nguội từ từ uống hết. Tác giả đã trị 10 ca kết quả đều tốt (Trương Hữu Quyền, Báo Y dược Thiên Tân 1977,6:281).
9.Trị hóc xương cá: Sơn tra 15g sắc đặc với 200ml nước ngâm một lúc lâu rồi nuốt. Còn dùng nấu nước tắm trị ghẻ lở, lở sơn dị ứng.
Liều dùng và chú ý:
Nguồn tin: theo GS Trần Văn Kỳ - Dược học cổ truyền - Ảnh sưu tầm từ Internet