19:47 05/01/2014
THIÊN THỨ HAI MƯƠI MỐT MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH ĐÀN BÀ SẢN HẬU
18:30 05/01/2014
THIÊN THỨ MƯỜI BẢY MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH ẨU THỔ, UẾ, HẠ LỢI
17:39 05/01/2014
THIÊN THỨ MƯỜI SÁU MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH KINH, QÚY, THỔ NỤC, HẠ HUYẾT, HUNG MÃN, Ứ HUYẾT
15:27 05/01/2014
THIÊN THỨ MƯỜI LĂM MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH HOÀNG ĐẢN
15:14 05/01/2014
THIÊN THỨ MƯỜI BỐN MẠCH CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH THỦY KHÍ
06:51 05/01/2014
THIÊN THỨ MƯỜI BA: MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH TIÊU KHÁT,TIỂU TIỆN KHÔNG LỢI, LÂM
06:41 05/01/2014
THIÊN THỨ MƯỜI HAI: MẠCH CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH ĐÀM ẨM VÀ KHÁI THẤU ĐIỀU 1 Hỏi: Ẩm có 4 loại, là loại nào ? Thầy đáp: Có Đàm ẩm, Huyền ẩm, Dật ẩm và Chi ẩm.
05:40 05/01/2014
THIÊN THỨ CHÍN: MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH HUNG TÝ,TÂM THỐNG, ĐOẢN KHÍ ĐIỀU 1 Thầy nói: Khi xem mạch phải coi sự thái quá, bất cập. Mạch dương mà Vi, mạch âm mà Huyền, đó là chứng ngực tê đau. Sở dĩ như thế vì người đó cực hư vậy. Nay mạch dương hư thì biết đó là bệnh ở thượng tiêu, cho nên ngực tê, Tâm thống vì mạch âm Huyền vậy.
22:13 04/01/2014
THIÊN THỨ BẢY: MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH PHẾ NUY, PHẾ UNG, KHÁI THẤU, THƯỢNG KHÍ ĐIỀU 1 Hỏi Nhiệt ở thượng tiêu, nhân ho, thành Phế nuy. Bệnh Phế nuy, do đâu mà có ? Thầy nói Hoặc do hãn ra, hoặc do ói mửa, hoặc do tiêu khát, tiểu tiện lợi, đi luôn, hoặc do đại tiện khó, lại bị hạ lợi quá nhiều trùng vong tân dịch (tân dịch mất nhiều lần), cho nên mắc phải. Hỏi Thốn khẩu mạch Sác, người bệnh ho, trong miệng lại có nước dãi, nước bọt đục, là cớ sao ? Thầy nói Là bệnh Phế nuy. Nếu trong miệng ráo, lúc ho trong bụng đau ngăm ngăm, mạch trở lại Hoạt, Sác, đó là Phế ung, ho, nhổ ra máu, mủ. Mạch Sác, Hư, là Phế nuy, Sác, Thực là Phế Ung.
22:01 04/01/2014
THIÊN THỨ SÁU MẠCH, CHỨNG VÀ PHÉP TRỊ BỆNH HUYẾT TÝ HƯ LAO ĐIỀU 1 Hỏi Bệnh huyết tý do đâu mà có ? Thầy nói Người sang trọng, xương yếu, cơ nhục và bì thịnh, nhân lúc mỏi mệt, nhọc nhằn, mồ hôi ra, khi ngủ bất thình lình trăn trở, bị thêm cơn gió nhẹ thổi qua mới bị bệnh này. Nhưng vì mạch Vi, Sáp ở Thốn Khẩu, tại bộ Quan mạch Tiểu, Khẩn. Nên châm dẫn dương khí, làm cho mạch hòa, không còn mạch Khẩn nữa thì khỏi.