CÁT CĂN ( Radix Puerariae) Vị thuốc Cát căn là rễ của cây Sắn dây (Pueraria thomsoni Benth ) thuộc họ Cánh bướm (Papilionaceae). Vị ngọt nhạt tính mát ( có tài liệu nói vị ngọt cay tính bình, qui kinh Tỳ Vị. Theo Danh mục thuốc thiết yếu thuốc đông y và thuốc từ dược liệu lần VI thuộc nhóm II - Phát tán phong nhiệt.
Tắc kè tên khoa học là Gekko gekko L. Bộ phận dùng cả con đã chế biến bằng cách nhúng nước sôi hoặc dùng rượu làm sạch lông, vảy, loại bỏ phủ tạng, đầu (chặt từ sau hai u mắt) và bàn chân. Có thể dùng tươi hay tẩm rượu nướng vàng để dùng. Theo Danh mục thuốc thiết yếu thuốc đông y và thuốc từ dược liệu lần VI thuộc nhóm XXVII - Bổ dương.
CAO LƯƠNG KHƯƠNG (Rhizoma Alpiniae Officinari) Cao Lương khương còn gọi là Tiêu lương khương, Phong khương, Riềng, Galanga dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Danh y biệt lục là thân rễ phơi hay sấy khô của cây Riềng có tên thực vật là Alpinia officinarum Hance, thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Theo Danh mục thuốc thiết yếu thuốc đông y và thuốc từ dược liệu lần VI thuộc nhóm IV - Trừ hàn.
CẢO BẢN (Rhizoma et radix Ligustici Sinensís) Cảo bản là thân rễ và rễ của cây Cảo bản ( Ligusticumsinense Oliv) . Vị cay, tính ấm, qui kinh Bàng quang. Theo Danh mục thuốc thiết yếu thuốc đông y và thuốc từ dược liệu lần VI thuộc nhóm I - Phát tán phong hàn.
CAN KHƯƠNG Gừng khô Thân rễ phơi khô của cây gừng Zingiber officinale Ross. Họ Gừng Zingiberaceae. Khi dùng cần thái phiến dày 1-1,5mm và tùy theo các trường hợp có thể chế biến khác nhau. Theo Danh mục thuốc thiết yếu thuốc đông y và thuốc từ dược liệu lần VI thuộc nhóm IV - Trừ hàn.
Mạch Đới và mạch Dương duy là hệ thống thứ 2 thuộc kỳ kinh mang tính chất dương. Mạch Đới và mạch Dương duy không có huyệt chung, chúng sử dụng kinh Đởm làm cầu nối giữa chúng với nhau.
“ Thiên gia diệu phương” có thể hiểu là “Những bài thuốc hay của đông đảo thầy thuốc” là một cuốn sách giới thiệu nhiều bài thuốc (cổ phương, tân phương, dân gian, gia truyền) dùng chữa những bệnh thường gặp nhưng chữa chạy không dễ dàng…Do đó, ngoài khái niệm và thuật ngữ của y dược học cổ truyền còn có khái niệm và thuật ngữ của y học hiện đại và cả 2 giới y dược cổ truyền và hiện đại đều có thể tìm thấy ở đây những kinh nghiệm bổ ích về y dược. GS Hoàng Bảo Châu
Góp phần thực hiện Nghị định số 32 của Chính phủ và Quyết định số 95 của Bộ NN-PTNT về việc cấm săn bắt, bắt giữ nuôi gấu trái phép, buôn bán các sản phẩm từ gấu, bao gồm cả mật gấu cũng như thực thi công ước CITES.
MẬT GẤU Còn gọi Hùng đởm. Tên khoa học Fel Ursi. Thuộc họ Gấu Ursdae. Mật gấu là túi mật phơi hay sấy khô của nhiều loài gấu Ursus sp. Ở Việt Nam, thường là loài Gấu ngựa Selenarclos thibetamus G. Cuvier, có khoang chữ V trắng ở ngực. " Mật gấu không đóng vai trò quan trọng trong Đông y, trong số 1500 bài thuốc cổ phương chỉ có rất ít bài thuốc sử dụng mật gấu" ( Thầy thuốc nhân dân Trần Văn Bản - Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam)
PHÚC TÂM ĐƯỜNG xin giới thiệu đến các bạn một tác phẩm của Thầy Nguyễn Đình Chúc đã dày công tìm hiểu và nghiên cứu địa danh vùng đất " Xứ Nẫu" qua tục ngữ, ca dao: