Tiếng ai than khóc nỉ non
Là vợ chú lính trèo hòn Cù Mông
Công tôi gánh gánh gồng gồng
Trở ra theo chồng bảy bị còn ba
Không đi thì sợ cái nghèo
Có đi thì sợ cái đèo Cù Mông
Không đi thì nhắc thì trông
Có đi thì sợ Cù Mông, Xuân Đài
Cá ngon là cá Cù Mông
Gạo ngon là gạo ở đồng Phú Dương Cù Mông là tên dãy núi, tên đèo, tên đầm. Đây là điểm đầu tiên người Việt đến Phú Yên trên bước đường Nam tiến. Cù Mông là dãy núi thuộc Trường Sơn chạy ra biển ngăn cách giữa hai tỉnh Bình Định và Phú Yên. Đèo Cù Mông nằm dài theo quốc lộ 1A quanh co uốn khúc trên mười cây số, phía Tây và Nam núi trùng điệp, trên núi có nhiều đỉnh cao, cây cối xanh tươi bốn mùa như hòn Ông cao 529m, hòn Cả 657m, hòn Chóp Vung 676m, hòn Khô 704m. Vùng núi non này là nơi phát nguyên của hai con sông Bà Nam chảy ra đầm Cù Mông và sông Tam Giang - còn gọi là Sông Cái – chảy ra vũng Chào trong vịnh Xuân Đài. Lưu vực sông tuy nhỏ nhưng độ dốc khá lớn và thay đổi theo mùa. Vũng Cù Mông được che kín bởi bán đảo VĨnh Cửu dài khoảng 15km chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Vũng chỉ có một cửa nhỏ ở Hòn Tôm nằm giữa Vĩnh Cửu Lợi và Từ Nham thuộc xã Xuân Thịnh, khi nước thủy triều lên, cửa sâu chừng 5m. Bờ vũng có nhiều hang hốc là nơi các giống cá sinh sản và phát triển. Cá ở đầm Cù Mông ngon, hợp khẩu vị nhiều người và du khách. Còn gạo ngon ở đây là gạo ở đồng Phú Dương. Phú Dương là đồng ruộng dưới chân dãy núi Cù Mông thuộc xã Xuân Thịnh cách thị trấn Sông Cầu 12km về phía Bắc. Là một xã đồng bằng nhưng có nhiều thôn bán đảo. Hai thôn Vịnh Hòa và Từ Nham sống bằng nghề biển và nuôi tôm hùm, còn thôn Hòa Hiệp và Phú Dương sống bằng nghề nông, ngày xưa đất này màu mỡ, hạt lúa no tròn đã nuôi sống người dân buổi đầu theo bước chân của vị Thành hoàng mở đất : Lương Văn Chánh (1)
Cù Mông dưới thời vua Lê Thánh Tôn (1460-1497) là vùng đất thuộc Hoa Anh ( Việt Sử xứ Đàng Trong – Phan Khoang). Từ năm 1471 đến năm 1578, vùng đất Cù Mông đến Đèo Cả là đất « Kimi » để cho tự do phát triển. Một sự cộng đồng lỏng lẻo Chiêm Việt tự hình thành. Mãi đến năm 1578, Lương Văn Chánh đưa lưu dân, là những người không sản nghiệp đến đất Cù Mông, Bà Đài ( Xuân Đài ngày nay) để khẩn hoang và được sự giúp đỡ nên vùng đất này phát triển dần dần. Nhưng Cù Mông cũng là vùng đất chịu nhiều gian khổ qua bao cuộc chiến tranh từ thời Tây Sơn, Nguyễn Ánh đến ngày thống nhất đất nước.
Dưới chân núi Cù Mông, thời Tây Sơn có ông Võ Văn Cao, học giỏi thông thạo Kinh Dịch, tính người nghiêm nghị, cương trực, không ưa văn chương phù phiếm. Năm 1773 ( Quý Tỵ) đã cùng với Nguyễn Lữ ( em ruột Nguyễn Huệ) và Nguyễn Văn Lộc đi khắp Phú Yên vào đến Diên Khánh ( tỉnh Khánh Hòa) và Bình Thuận để theo dõi tình hình. Ông liên lạc với vua Thủy Xá (2) và vận động thân hào, nhân sĩ địa phương hưởng ứng cuộc Nam chinh của Tây Sơn.
Năm Kỷ Mùi ( 1799), Nguyễn Ánh đã cho sửa đường sá từ đỉnh Cù Mông trở vào. Về sau khi lên ngôi, năm 1802, Gia Long cho đặt các trạm Bình Phú để giao dịch trên đỉnh Cù Mông giữa tỉnh Bình Định và Phú Yên. Cùng năm ấy, Gia Long cho xây miếu Biểu Trung ở hòn Nần trong đầm Cù Mông thuộc làng Vĩnh Cửu tổng Xuân Bình thờ Thiếu Quận Công Mai Đức Nghị và 526 tử sĩ trong cuộc chiến. Lúc đầu miếu có tên là ‘‘ Cù Mông Công Thần Miếu ’’, đến năm 1851 ( Tân Hợi) vua Tự Đức đổi tên là ‘‘ Miếu Biểu Trung’’. Trước thời Thành Thái cúng tế một năm hai lần vào dịp cúng xuân và thu. Từ thời Thành Thái đến năm 1933 chỉ tế một lần vào dịp xuân kỳ. Trong những năm khói lửa chiến tranh, vùng đất dưới chân đèo Cù Mông thuộc xã Xuân Lộc đã hy sinh hơn 300 người con cho quê hương thanh bình phát triển. Toàn xã hiện nay có một trường phổ thông trung học, bốn trường tiểu học, một phân viện y tế và khu văn hóa. Chợ Xuân Lộc được xây dựng từ năm 1962 đến nay được sửa chữa khang trang. Xuân Lộc đi lên với những khu rừng bạt ngàn xanh tốt, những cây thực phẩm chủ yếu trồng ở Diêm Trường với diện tích 25 ha (1998), với những vườn dừa, vườn đào lộn hột, những đàn bò và đồng cỏ ở Tây Chánh Lộc , Thạch Khê ... Đầm Cù Mông xây dựng làng tôm nuôi trồng thủy sản đến vài trăm hecta ở Long Thạnh. Cù Mông ngày nay không còn tiếng ai than khóc nỉ non và cảnh gánh gánh, gồng gồng nữa.
Vùng đất có diện tích 8.489 ha, dân số 13.292 người ( 1999), có núi Chóp Vung cao 676m giáp ranh với Bình Định. Vùng này có mỏ cao lanh trữ lượng nhỏ, giá trị công nghiệp thấp và mỏ cát Diêm trường có khả năng đáp ứng cho nhu cầu xây dựng vì trữ lượng tương đối lớn. Xuân Lộc còn có sông Bà Bông dài 9,2km và Bà Nam chiều dài 9,4 km đổ ra biển với diện tích lưu vực chừng 28km2 có đập Long Thành và thác Thạch Khê cảnh quan đẹp có tiềm năng du lịch. Xuân Lộc còn có di chỉ khảo cổ Cồn Đình, thuộc thôn Diêm Trường mà Bảo tàng Phú Yên phối hợp với Bảo tàng Lịch sử Việt Nam khai quật năm 1997 trên diện tích 80m2 ở độ sâu 1,1m, phát hiện 168 hiện vật, có 51 hòn ghè bằng đá cuội tròn nhẵn, 25 hòn kê có vết lõm trên bề mặt dấu vết ghè đập...
(1) Ông là người vùng Thanh Nghệ, sinh vào khoảng 1540 và mất năm 1611. Lăng miếu mộ ở làng Phụng Tường, xã Hòa Trị, Tuy Hòa được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia.(2) Nước Thủy Xá ở phía Nam nước Chiêm Thành cũ ( Phương Đình dư địa chí) ( hình sưu tầm từ internet)