Ở Trung Quốc, cây Chưởng diệp Đại hoàng và Đường cổ đặc Đại hoàng mọc ở Thanh Hải, Cam Túc nên gọi là Bắc Đại hoàng, cây Dược dụng Đại hoàng chủ yếu mọc ở Tứ Xuyên nên gọi là Nam Đại hoàng.
Tính vị qui kinh:
Đại hoàng vị đắng, tính hàn, qui kinh Tỳ, Vị, Đại tràng, Can, Tâm.
Theo các sách thuốc cổ:
Thành phần chủ yếu:
Trong Đại hoàng có 2 loại hoạt chất có tác dụng ngược nhau. Loại có tác dụng tẩy là các dẫn chất của anthraquinone glycoside tổng lượng chiếm khoảng 3 - 5% phần lớn ở trạng thái kết hợp gồm có chrysophanol emodin, aloe-emodin, rhein và physcion, loại có tác dụng thu liễm là các hợp chất có tanin (rheotannoglycosid) chủ yếu có glucogallin, rheumtannic acid, gallic acid, catechin, tetrarin, cinnamic acid, rheosmin. Ngoài ra còn có acid béo, calcium axalate, glucose, fructose, sennoside A,B,C,D,E, các acid hữu cơ và các chất giống oestrogene.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:
Đại hoàng có tác dụng: tả hạ công tích, tả hỏa, thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết hóa ứ, lợi thủy thanh nhiệt hóa thấp. Chủ trị các chứng: tích trệ chứng thực, lî tật, đau đầu do thực hỏa, mắt đỏ họng đau, mồm lở, xuất huyết do nhiệt, nhọt lở do nhiệt độc, bỏng, trường ung ( viêm ruột thừa), kinh bế, sau sanh nước ối không ra, trưng hà, chấn thương do té ngã, phù thũng, hoàng đản, chứng lâm.
Trích đoạn Y văn cổ:
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
Ứng dụng lâm sàng:
1.Trị thận suy mạn tính: Bệnh viện Thủ đô Bắc kinh báo cáo: dùng Đại hoàng 30 - 60g (nếu cho sao dùng 20g), Mẫu lệ nung 30g, Bồ công anh 20g, sắc còn 600 - 800ml, thụt lưu đại tràng, mỗi ngày 1 lần, bệnh nặng 2 lần, giữ bệnh nhân mỗi ngày tiêu 3 - 4 lần là được. Kết quả trong 20 ca, tổ A 10 ca (creatinin 10mg%), triệu chứng cải thiện, urê giảm kết quả rõ. Tổ B (creatinin 10 - 15mg%) 6 ca kết quả kém. Tổ C (creatinin 15mg%) 4 ca, kết quả kém hơn ( Tất tăng Kỳ, Tạp chí Trung y 1981,9:21).
2.Trị xuất huyết tiêu hóa trên: dùng bột (viên hoặc sirô) Đại hoàng trị 890 ca xuất huyết tiêu hóa trên ( không bao gồm xuất huyết do xơ gan), mỗi lần uống 3g, ngày 3 lần, kiểm tra phân âm tính hoặc dương tính nhẹ mới thôi uống. Trong thời gian điều trị không dùng các loại thuốc cầm máu khác. Chảy máu nhiều truyền máu hoặc glucoz. Kết quả trong 890 ca có 868 ca máu cầm tỷ lệ 97%. Bình quân thời gian cầm máu là 2 ngày, bình quân lượng Đại hoàng dùng cho mỗi bệnh nhân 18g (Tiêu Đông Hải, Tạp chí Trung tây y kết hợp 1982,2:85).
3.Trị Viêm tụy cấp: tác giả dùng Sinh Đại hoàng sắc, mỗi lần 30 - 60g, 1 - 2 giờ uống 1 lần cho đến khi bụng giảm đau, amylase nước tiểu bình thường, bạch cầu giảm thì giảm liều. Đã trị 100 ca, trừ các chứng nặng đều không dùng hạ áp lực dạ dày ruột, không nhịn ăn, một số ít bệnh nhân truyền dịch hoặc dùng thêm trụ sinh. Sau khi bệnh ổn định tiếp tục dùng viên Đại hoàng, mỗi lần 3 g, ngày 2 lần để cũng cố. Kết quả: toàn bộ bệnh nhân đều có kết quả, bình quân sau 2 ngày, amylase nước tiểu bình thường, sau 3 ngày bụng hết đau và triệu chứng bệnh lý ở bụng hết, sau 5 ngày, thử nghiệm SGPT hồi phục bình thường. Bình quân mỗi bệnh nhân dùng 450g Đại hoàng ( Tạp chí Trung tây y kết hợp 1982,2:85).
4.Trị viêm ruột hoại tử xuất huyết: tác giả dùng thuốc sắc Đại hoàng sống kết hợp truyền dịch cân bằng nước điện giả trị 14 ca. Người lớn mỗi lần uống Đại hoàng sống sắc 24 - 30g, mỗi ngày 2 - 3 lần. Trừ 2 ca không khỏi, còn lại đều tốt. Thường sau 2 - 6 lần uống thuốc, bụng đau giảm rõ, triệu chứng nhiễm độc được cải thiện, phân máu mũi chuyển thành phân lỏng ( Chu Kiến Nghi, Tạp chí Trung y dược Phúc kiến 1985,1:36).
5.Trị tai biến mạch máu não: Bệnh viện Trung y Thành phố Tôn nghĩa trị 72 ca tai biến mạch máu não ( não xuất huyết 11 ca, nhũn não 61 ca có các triệu chứng bình quân 4 ngày không đại tiện, rêu lưỡi vàng nhớt hoặc khô. Dùng Đại hoàng 12g, Mang tiêu 10g (hòa uống), Chỉ thực ( hoặc Hậu phác 9g, Cam thảo 6g, sắc còn 200ml chia 2 lần uống, mỗi 2 giờ 1 lần, hôn mê gia An cung Ngưu hoàng hoàn 1 - 2 hạt. Thông thường uống 1 - 2 lần tỉnh, triệu chứng giảm, bệnh nhẹ hơn. Trong đó 18 ca hôn mê, sau uống thuốc tỉnh 10 ca, không thay đổi 8 ca ( Thang tống Minh, Tạp chí Trung tây y kết hợp 1983,1:19).
6.Trị chứng lipid huyết cao: dùng cồn chiết xuất Đại hoàng làm viên 0,25g dùng trị 47 ca, mỗi ngày sáng sớm uống 3 viên liên tục 3 tuần, kết quả tốt; số bệnh nhân tri glyceride và beta-lipoprotein cao đạt kết quả 76% (Tiêu đông Hải, Trung y dược tạp chí Thượng hải 1988,8:2).
7.Trị viêm gan vàng da cấp tính: tác giả dùng làm cao Đại hoàng trị 80 ca, người lớn dùng 50g, trẻ em 25 - 30g, sắc uống, ngày 1 lần, trung bình dùng 16g mỗi ngày. Kết quả hồi phục chức năng gan, cải thiện triệu chứng tốt, tỷ lệ có kết quả 95%, tốt 81,25% ( Ngô Tài Hiền, Tạp chí Trung tây y kết hợp 1984,2:88).
8.Trị viêm amidale có mủ cấp: mỗi ngày dùng Sinh Đại hoàng 15g, trẻ em 8-10g, dùng nước sôi 250ml (hãm uống nuốt dần), 2 giờ uống 1 lần, có thể uống 4 lần. Theo dõi 22 ca kết quả tốt, bình quân 2 - 4 ngày khỏi (Lâm văn Mỗ, Tạp chí Trung y dược Phúc kiến 1987,2:43).
Báo cáo của Tôn thị Diệc, mỗi ngày dùng Đại hoàng sống 6 - 9g hãm nước uống, 2 giờ sau lại hãm nước sôi thuốc đó uống lần nữa. Đã trị 40 ca viêm amidale có mủ ở trẻ em, kết quả tỷ lệ khỏi 85% ( Tôn Thiệu Danh, Tạp chí Trung tây y kết hợp 1987,11:695).
9.Trị chứng trường vị thực nhiệt táo bón:
Trong các bài thuốc trên, Đại hoàng cho vào sau, Mang tiêu tán bột hòa nước uống. Về tác dụng tẩy xổ thì bài Đại thừa khí thang mạnh nhất, bài Điều vị thừa khí thang có Cam thảo điều hoà nên tác dụng nhẹ hơn, lúc dùng tùy tình hình bệnh nhân mà chọn bài thuốc.
10.Trị các chứng thực hỏa nhiệt độc gây nôn ra máu, chảy máu cam, răng lợi sưng đau, mắt đỏ xung huyết.:
11.Trị chứng kinh bế huyết ứ đau bụng dưới, chấn thương do té ngã:
Liều lượng thường dùng và chú ý:
Nguồn tin: theo GS Trần Văn Kỳ - Dược học cổ truyền - Ảnh sưu tầm từ Internet