CƯU VĨ ( Jiu Wei). Huyệt thứ 15 thuộc Nhâm mạch ( CV 15). Tên gọi: Cưu ( có nghĩa là loại chim gáy, chim tu hú); Vĩ ( có nghĩa là cái đuôi). Hình giải phẫu của mũi ức được so sánh với đuôi chim gáy. Huyệt nằm ở mũi ức, do đó mà có tên là Cưu vĩ.
CƯỜNG GIAN ( QiángJiàn). Huyệt thứ 18 thuộc Đốc mạch ( GV 18). Tên gọi:Cường ( có nghĩa là sức mạnh); Gian ( có nghĩa là trên hay giữa). Huyệt này nói đến hộp sọ rất cứng, do đó mà có tên Cường gian.
CỰC TUYỀN ( Jiquán). Huyệt thứ 1 thuộc Tâm kinh ( H 1). Tên gọi: Cực ( có nghĩa là cái nóc nhà, nay gọi các sự vật gì cao gọi là Cực. Ở đây nói đến huyệt cao nhất ở vùng nách); Tuyền ( có nghĩa là con suối). Tâm chi phối sự lưu thông huyết trong các mạch. Trường hợp này nó được so sánh với dòng chảy của con suối. Huyệt cao nhất của kinh Tâm, nằm ở trung tâm của nách nơi mà động mạch nách có thể sờ được. Sự lưu thông huyết ở đây nhanh và mạnh, giống như nước chảy từ một con suối ở trên chảy xuống, do đó mà có tên là Cực tuyền ( suối trên cao chảy xuống).
CỰ LIÊU ( Juliáo). Huyệt thứ 3 thuộc Vị kinh ( S 3). Tên gọi: Cự ( có nghĩa là lớn); Liêu ( có nghĩa là nói đến kẻ hở xương hay chỗ lõm của kẻ hở xương. Huyệt nằm nơi chỗ hõm ở xương hàm trên, nơi gò má, ở đó có một kẻ hở lớn trong xương nên gọi là Cự liêu ( kẻ hở lớn).
CỰ KHUYẾT ( Jùquè). Huyệt thứ 14 thuộc Nhâm mạch ( CV 14). Tên gọi: Cự ( có nghĩa là to lớn); Khuyết ( có nghĩa là cổng hai tầng, làm hai cái đai ngoài cửa, trên làm cái lầu, ở giữa làm lối đi gọi là khuyết. Tâm khí chảy vào Tâm qua huyệt này, nó là Mộ huyệt của Tâm, trong " Châm cứu vấn đối" cho nó như là cung điện của trái tim nên gọi nó là Cự khuyết.
CỰ CỐT ( Jùgũ). Huyệt thứ 16 thuộc Đại trường kinh ( LI 16). Tên gọi: Cự ( có nghĩa là một cái gì đó to lên); Cốt ( có nghĩa là xương). Ngày xưa theo giải phẫu cổ gọi xương đòn là Cự cốt. Huyệt này nằm trên chỗ cuối cùng ở bên của vai, nơi đó thường được mang gánh nặng hoặc người ta mang một vật gì đó ở trên vai. Cho nên có tên là Cự cốt ( xương lớn, xương đòn gánh).
CƠ MÔN ( Ji mén). Huyệt thứ 11 thuộc Tỳ kinh (Sp 11). Tên gọi: Cơ ( có nghĩa là cái rổ, cái sàng, cái nia); Môn ( có nghĩa là cửa, nơi ra vào thường xuyên). Khi điểm huyệt này, bảo bệnh nhân gập cong đầu gối ngồi soạt và dang bàn chân ra như thể đang ôm một cái rổ giữa hai đầu gối.
CÔNG TÔN (Gòngsùn ). Huyệt thứ 4 thuộc Tỳ kinh (Sp 4). Tên gọi: Công ( nguyên nghĩa là một hình thức nói có ý tôn trọng đối với viên chức cao cấp); Tôn ( có nghĩa là cháu trai). Vào thời xưa, con trai của Hoàng tử và Công tước thời phong kiến được gọi là Công tôn ( cháu). Huyệt này là huyệt " lạc " nối từ kinh đó với một nhánh khác nên có tên là Công tôn.
CÔN LÔN ( Kùnlún) . Huyệt thứ 60 thuộc Bàng quang kinh ( B 60). "Côn lôn" nguyên gốc là tên một ngọn núi nổi tiếng ở phía tây Trung Quốc, ở đây nói đến một cái gì đó cao và lớn. Huyệt ở sau bên dưới gân cơ mác bên, một nét nổi bật của việc giải phẫu vùng chân bên. Ngoài ra nó còn có biểu hiện những bệnh lý về đầu, đầu là phần cao nhất của cơ thể, do đó mà có tên là Côn lôn.
CHƯƠNG MÔN ( Zhàngmén) . Huyệt thứ 13 thuộc Can kinh ( Liv 13). Tên gọi: Chương ( có nghĩa là rõ rệt, sáng sủa, rõ ràng, văn vẻ, phân minh); Môn ( có nghĩa là cửa). Huyệt thuộc Túc Quyết âm Can kinh, được đại diện bởi màu xanh và mùa xuân, biểu hiện sự sáng sủa. Nơi vùng nghi bệnh được so sánh với cửa ngõ, do đó có tên là Chương môn.